Quốc bảo chân kinh: Phục hưng văn hóa cội nguồn Tiên Rồng Việt Nam

CHƯƠNG 9

PHẦN 4

PHĂNG LẦN GỠ RỐI


Sự hình thành nóng lạnh trong nội thể mỗi ngày mỗi lớn để phăng lần từng mối, gỡ rối từng khúc, Thái Tử quán nghiệm lại bốn thể lớn của vũ trụ.

Thể Lực

Thể Hơi

Thể Lỏng

Thể Đặc


Rồi đưa ra luận chứng phân tích. Thái Tử nghĩ Thể Lực vô cực Chân nguyên là Thể Lực chưa phân định Âm Dương. Thể Lực vũ trụ này, xuyên qua sắc, thép, kim cương, vàng, đá, sành, kiến kính, không để lại dấu vết, chỗ nào cũng có khắp cùng vũ trụ, lực này bị khuấy Động liền tạo ra hai dòng từ trường Âm và Dương nóng – lạnh Động tịnh, khi nào từ trường Âm Dương va chạm vào nhau thì phát ra tiếng sấm và những tia lửa bắn ra gọi là sét. Thể Lực là Thể Chủ của ba thể kia, thể chưa phân định Âm Dương, thì làm gì tìm ẩn nóng lạnh dẫn đến sự xung đột nóng lạnh trong nội thể không phải do Thần lực tạo ra.

Dưới Vô Cực Chân nguyên, là Thái Cực Chân nguyên, tức là Thái Thanh Chân Khí, khí vừa mới tượng hình, do Lực già chuyển hóa sanh ra Thái Thanh Chân Khí là giai đoạn đầu phân định lưỡng nghi, Âm chưa thành Âm, Dương chưa thành Dương, cũng như một mầm cây bắt đầu nảy mầm hai nhánh, sự nẩy mầm này chỉ là giai đoạn đầu khởi điểm Âm Dương, thì làm sao xung khắc nhau được, nếu xung khắc đó mới chỉ là hiện tượng mà thôi.

Còn sự xung khắc trong nội thể thì quá rõ ràng, có thể xảy ra xung đột đến mất mạng. Thái Tử nghĩ hiện tượng này là do Âm Dương chân khí, cùng thái Âm thái Dương chân khí xung đột tạo ra mà thôi. Thái âm Thái Dương Chân Khí là do Thái Thanh Chân Khí đã già chuyển hóa sanh ra. Sự chuyển hóa này đã trở thành quy luật, không những ở trong Chân Khí mà ngay cả xã hội cũng vậy, thời kỳ quá độ của chế độ sẽ tự nó đổi mới chuyển sang chế độ khác.

Trong vũ trụ tuổi thọ của Thể Lực, gấp 20 lần của thể khí, tuổi thọ của thể khí gấp 20 lần của thể lỏng, tuổi thọ của thể lỏng gấp 20 lần của thể đặc, tuổi thọ của thể đặc gấp 20 lần tăng giảm sẽ bị hủy hoại, cứ một lần tăng giảm trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Đạo pháp cũng thế đều có tuổi thọ an trụ của nó, chẳng hạn như Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ, an trụ tuổi thọ là năm tiểu kiếp, 84 triệu năm, thì chuyển đến Liên Hoa Hải Tạng.

Giải quyết sự nóng lạnh xung đột trong nội thể, Thái Tử tiến đến giải pháp, dùng ý tưởng lưu dẫn chúng làm cho chúng chuyển động theo luật tuần hoàn lưu chuyển khắp kinh mạch, dung hoàn Âm Dương tiến lên một tầm cao mới. Sự lưu dẫn chân khí theo luật tuần hoàn dung hòa Âm Dương khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch là một phương pháp vô cùng hữu hiệu. Sự xung đột nóng lạnh trong cơ thể biến mất, thay vào đó Thần Lực, Công Lực, Nội Lực tăng lên gấp 3 gấp 4 lần.

Thái Tử nghĩ dung hòa hàng trăm Bộ Lạc theo đường lối Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Mà nền tảng của sự dung hòa nầy là tôn trọng Quyền con người Nhân Quyền, phải lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Đi vào Công Bằng Bình Đẳng. Tuy thiên hạ có muôn ý khác nhau. Nhưng chung cùng lương tâm đồng nhất quyền con người, dân là gốc, công bằng bình đẳng tinh hoa sự sống con người. Và cũng chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính Đa Nguyên, Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng mới dung hòa hết thảy các tầng lớp xã hội đi vào thống nhất. Tạo lên sức mạnh nội lực dân tộc.

Thái Tử dẫn khí từ Đan Điền xuống Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực, Khúc Cốt, Hội Âm chót xương cụt, hết phần bụng dưới. Rồi từ chót xương cụt, phần lưng chạy lên đỉnh đầu, Yêu Di xương cùng, Dương Quan thắt lưng, rồi tới Mệnh Môn, Thần Đạo, Chí Dương, Chân Trụ, Đào Đạo, Đại Thùy, Á Môn, Phong Phủ, Hậu Đình, Bách Hội. Bách Hội là Hội đỉnh đầu.

Thái Tử tiếp tục dẫn chân khí chạy về phía trước đỉnh đầu xuống mặt, xuống ngực, xuống bụng trên, bụng dưới trở về Đan Điền. Bách Hội. Tiền Đình. Tinh Hội. Thần Đình. Ấn Đường. Tinh Minh. Hòa Liêu. Nhân Trung. Thừa Tương. Thái Tử vận chân khí tới đây hết phần mặt rồi tiếp tục xuống cổ xuống ngực. Thừa Tương, Liêm Tuyền, Trung Quản, Thủy Phân rồi hội tụ tại Đan Điền.

Cứ thế Thái Tử vận hành càng lúc càng trôi chảy, thể xác con người là thể xác tiểu Thiên vũ trụ, nay Thái Tử vận hành Chân Khí chuyển vận chạy từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, tuần hoàn không dứt, làm cho các huyệt Đạo thông suốt, làm cho kinh mạch thông theo, một bí pháp vô cùng quan trọng đối với cơ thể con người tiểu Thiên vũ trụ. Thái Tử khai thông cơ thể, làm cơ thể bừng lên sức sống mãnh liệt. Thái Tử dần dần chinh phục tiểu Thiên vũ trụ, làm chủ tiểu Thiên vũ trụ, tiến lần đến làm chủ Đại Thiên vũ trụ.

Nhờ chăm chú vận hành chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, sự vận hành ấy dần dần lưu chảy thông suốt. Từ Đan Điền xuống xương cụt, theo đường xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi xuống tráng, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền, sự tuần hoàn ấy Thái Tử vận chuyển chân khí lặp đi lặp lại.

Mới vận chuyển chân khí, Thái Tử cảm nhận như dòng khe nước nhỏ. Nhưng giờ đây khác hẳn, Thái Tử cảm nhận như một con sông lớn lưu chuyển chảy cuồn cuồn từ ÂM sang DƯƠNG từ DƯƠNG sang ÂM. Từ Hạ Thiên đến Thiên Tiên. Từ Bách Hội xuống Hội Âm, Chân khí tràn chảy đến đâu, không những khai thông huyệt Đạo kinh mạch mà còn rộng mở huyệt Đạo kinh mạch. Sự xung đột Âm Dương không còn nữa. Thay vào đó một th.ân thể nhẹ bổng, trào dâng sức sống Thể Lực thượng thừa.

Hình Ngồi Thiền 1


Thái Tử từ khi tu Thiền luyện khí, tích tụ nơi Đan Điền. Huyệt ÂM GIAO. Chân khí tích tụ mỗi ngày mỗi lớn mạnh, lan tỏa rộng lớn khai thông các huyệt Đạo xung quanh, các kinh mạch theo đó cũng rộng mở cả bụng dưới lẫn bụng trên gần mấy chục huyệt Đạo nhưng ở đây chỉ kể một số huyệt Đạo chủ yếu mà thôi. Xung quanh xa gần huyệt Đan Điền như huyệt Khí Hải, Thủy Phân, Quan Nguyên, Trung Quản lên tận Cự Khuyết xuống Khúc Cốt rồi lan tỏa rộng ra hai bên khai thông một số các huyệt Đạo khác Phúc Kết, Thủy Đạo, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự, Đại Hách, Kỳ Môn, Cự Huyết, Lương Môn, Bất Dung, Chương Môn, Nhật Nguyệt, Đới Mạch, Cự Liêu, Ngủ Khu, Xung Môn, v.v...

Hình Ngồi Thiền 2


Sự khai thông này cũng giống như các Biển Hồ Bể Khí tràng đầy Khí Lực thông suốt cùng nhau tạo lên sức lực khôn lường. Huyệt Đạo khai mở, kinh mạch thông suốt, sức lực sinh khí tràn đầy. Thái Tử mỗi lần tu Thiền luyện khí thời thấy có một luồng khí nóng từ Đan Điền tỏa ra xung quanh vùng bụng dưới rồi tỏa lên khắp châu thân và gần đây Thái Tử thấy hai luồn nóng lạnh chống chỏi nhau. Và Thái Tử đã nghĩ ra phương pháp vận hành lưu dẫn Chân khí khai thông toàn bộ các huyệt Đạo – Kinh mạch châu thân.

Thái Tử dẫn chân khí bắt đầu từ ĐAN ĐIỀN xuống KHÍ HẢI xuống QUAN NGUYÊN rồi đến TRUNG CỰC. KHÚC CỐT, HỘI ÂM. Thông qua xương cụt ra sau lưng, khai thông TRƯỜNG CƯỜNG chạy lên theo đường xương sống khai thông YÊU DI. Thuộc phạm vi vùng mông, xương cùng. Chân Khí lan tỏa ra hai bên vùng mông khai thông các huyệt Đạo như Hội Dương, ở xương cụt, Hạ Liêu, Trung Liêu, Thứ Liêu, Bàng Quang Du, Tiểu Tràng Du, Bàn Hoang, Quan Nguyên Du.

Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân Khí chạy lên vùng eo lưng, khai thông huyệt DƯƠNG QUAN của eo lưng, thông lên MỆNH MÔN xuống sống bụng, Chân Khí lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt chạy dọc theo hai bên xương sống như huyệt Thận Du, Tam Tiêu Du, Đại Tràng Du, Thương Liêu, Chí Thất, Vị Du. Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí khai thông lên huyệt CHÍ DƯƠNG. Đốt xương sống ngực thứ 7. Dưới đốt xương sống ngực thứ 7 thuộc Âm. Huyệt Chí Dương nằm ngay tại vùng giáp ranh đó.




Chân Khí chạy lên huyệt CHÍ DƯƠNG lan tỏa ra hai bên khai thông các huyệt Đạo như huyệt Đởm Du, Tỳ Du, Can Du, Cách Du, Cách Quan. Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí chạy lên vùng lưng khai thông huyệt THÂN TRỤ cùng các huyệt Đạo dọc theo hai bên vùng lưng xương sống ngực như các huyệt Đạo Phế Du, Quyết Âm Du, Tâm Du, Thần Đường, Cao Hoang, Phách Hộ, Phụ Phân.

Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí thông lên ĐÀO ĐẠO, ĐẠI CHÙY. Chân Khí lan tỏa hai bên xương sống khai thông các huyệt Đạo vùng lưng cũng như vùng lưng bả vai như huyệt Đại Chữ, Kiên Trung Du, Đại Trứ, Khúc Viên, rồi thông qua các huyệt Đạo lưng hai bên xương vai như huyệt, Phụ Phân, Thiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Kiên Tỉnh, Bình Phong, Kiên Liêu, Kiên Ngưng, Thiên Tông, Phong Môn. Tức thì khai thông ra toàn bộ vùng lưng, vùng eo, vùng mông. Đại Chùy, Đào Đạo, Thân Trụ, Thần Đao, Chí Dương, Trung Khu, Tích Trung, Đại Chữ, Kiên Tỉnh, Kiên Ngưng, Phong Môn, Bình Phong, Thiên Tông, Kiên Liêu, Kiên Ngoại Du, Phong Môn, Thiên Liêu. Phụ Phân. Quyết âm Du. Tâm Du. Đốc Du. Thiên Tông, Kiên Trinh, Đại Trứ, Phế Du, Cách Du, Cam Du, Đảm Du, Tỳ Du, Tam Tiêu Du, Vị Du, Chí Thất, Mệnh Môn, Thận Du, Đại Tràng Du, Quan Nguyên Du, Tiểu trường Du, Thượng Liêu, Thứ Liêu, Dương Quan, Trung Liêu, Hạ Liêu, Bàng Quang Du, Trung Lữ Du, Bạch Hoàng Du, Thừ Phù, Yêu Di, Trường Cường.




Chú ý ở đây chỉ nói đại khái những huyệt Đạo chủ yếu mà Thái Tử đã khai thông toàn bộ lưng, eo, mông. Huyệt Đạo khai mở kinh mạch theo đó cũng thông suốt. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân Khí thông lên 7 đốt xương sống cổ, khai thông huyệt Đạo Á môn. PHONG PHỦ. Chân khí lan tỏa ra hai bên sống cổ khai thông các huyệt như Thiên Dũ, Phong Trì, Thiên Trụ, An Miên, Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí thông lên đầu, khai thông HẬU ĐÌNH rồi thông lên BÁCH HỘI đỉnh đầu, Thái Tử dừng nghỉ để cho Chân Khí hội tụ Đỉnh Đầu càng lúc càng mạnh, làm cho Huyệt BÁCH HỘI khai thông rộng mở. Bách Hội khai thông rộng mở, thì các kinh mạch chủ lực liền thông suốt, nhiệm mầu thay. Đầu óc Thái Tử trở nên minh mẫn lạ thường. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân khí từ Bách Hội chạy về phía trước Đầu, khai thông TIỀN ĐÌNH, TINH HỘI rồi đến THẦN ĐÌNH. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông một số huyệt Đạo như Thông Thiên, Khúc Sai. Chân khí tuôn xuống trán khai thông Tinh Minh, Dương Bạch xuống ẤN ĐƯỜNG. Chân khí lan tỏa khai thông Toản Túc, Ty Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương. Thái Tử lại dẫn Chân khí xuống mắt xuống mũi. Khai thông huyệt Nhân Trung, chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Thừa Khớp, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Tứ Bạch, Khách Chủ Nhân, Hạ Quang. Thái Tử lại tiếp tục dẫn chân khí chạy xuống miệng xuống cằm khai thông huyệt Thừa Tương. Chân khí lan tỏa rộng ra khai thông huyệt Địa Thương, Quyền Liêu, Đại Nghinh. Thái Tử dẫn chân khí tới đây hầu hết khai thông các huyệt Đạo chủ yếu ở phần mặt Bách Hội, Tiền Đình, Tinh Hội, Thần Đình, Thông Thiên, Khúc Sai, Tinh Minh, Dương Bạch, Ấn Đường, Toản Trúc, Ti Trúc Không, Ngư Yêu, Thái Dương, Nhân Trung, Đồng Tử Liêu, Tứ Bạch, Địa Thương, Nghinh Hương, Cự Liêu, Hòa Liêu, Quyền Liêu, Thừa Tương. Thái Tử lại dẫn chân khí xuống cổ khai thông huyệt Liêm Truyền. Chân khí lan tỏa khai thông huyệt Nhân Nghinh, Thiên Đỉnh, Thủy Đột, Khuyết Bồn.


Thái Tử lại dẫn khí xuống khai thông THIÊN ĐỘT thông xuống phần ngực chân khí tỏa ra một vùng rộng lớn. Khai thông Khí Xá, Du Phủ, Trung Phủ, v.v... Khuyết Bồn, Kiên Tỉnh, Vực Trung. Thái Tử lại tiếp tục dẫn Chân khí chạy xuống khai thông huyệt ĐẢN TRUNG rồi thông xuống khai thông Cưu Vĩ. Chân khí liền tỏa ra một vùng rộng lớn khắp vùng ngực, làm thông suốt một số huyệt Đạo như huyệt Thần Phong, Nhũ Trung, Nhũ Căn, Ưng Song, Thiên Khê, v.v...

Khai thông xong các huyệt Đạo ở phần ngực, Thái Tử lại dẫn chân khí khai thông các huyệt Đạo ở phần bụng trên, từ huyệt Đạo Cưu Vĩ thông xuống CỰ KHUYẾT, TRUNG QUẢN, THỦY PHÂN. Chân khí liền lan tỏa khắp vùng bụng trên, khai thông một số huyệt Đạo như huyệt Bất Dung, Kỳ Môn, Nhật Nguyệt, Lương Môn, Đới Bạch. Rồi thông xuống ÂM GIAO tức là huyệt ĐAN ĐIỀN, trở về bể nguồn nơi xuất phát. Chân khí cuồn cuộn lan tỏa xuống Khí Hải, Hoang Du, Thiên Khu, Đại Cự Y, Quan Nguyên, Trung Cực thông xuống Khúc Cốt lan tỏa khai thống hết thảy các huyệt Đạo ở bụng dưới như huyệt Đại Hách, Duy Đạo, Ngũ Xu, Xung Môn, Cự Liêu, Đại Cự, Khí Xung, Thủy Đao, Ngủ Khu, v.v...

Thái Tử vận hành Chân khí tuần hoàn cứ thế mà vận chuyển khai thông huyệt Đạo kinh mạch càng lúc càng thông suốt, càng lúc nhuần nhuyễn dễ dàng. Vận hành Chân khí, khí thông huyệt Đạo, kinh mạch là một bí pháp, ẩn tàng huyền vi khó mà nói cho hết. Tuy Thái Tử đã đi hơn nữa đoạn đường tu Thiền luyện khí, vận hành khai thông huyệt Đạo, kinh mạch. Nhưng đã đưa Thái Tử đến đỉnh cao, khó có người theo kịp.

Để bước sang giai đoạn khó hơn, đòi hỏi người tu Thiền vận hành Chân khí phải tập trung ý chí tinh thần cao độ, tập trung, thấy nghe hay biết, chú tâm vào tu Thiền vận khí mà thôi.

Tổ Tiên tạo lập lên vũ trụ, thì chúng ta phải tạo lập lên sự sống con người, con cái của Tổ Tiên thay thế Tổ Tiên cai quản vũ trụ. Tổ Tiên tạo lập lên thể xác con người là thể xác hoàn hảo, anh linh tối cao, thể xác Tiểu Thiên vũ trụ, thể xác tinh hoa hơn cả tinh hoa 8 muôn 4 nghìn loài cộng lại. Cũng không hơn được thể xác Tiểu Thiên vũ trụ con người. Linh Hồn đầu thai để được làm người là điều rất khó, đầu thai được làm người thì coi như Linh Hồn đã làm chủ bộ máy thể xác huyền vi vũ trụ. Linh Hồn nhờ làm chủ bộ máy thể xác.




Tiểu Thiên vũ trụ này, tiến hóa Linh Hồn phát Huệ mau chóng, đạt đến đỉnh của sự giác ngộ, làm chủ vũ trụ, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Bộ máy thể xác con người, bộ máy Tâm Linh con người là cả kho tàng bí mật vũ trụ. Không có bộ máy nào huyền diệu hơn bộ máy Tâm Linh, bộ máy thể xác con người. Không có con thuyền nào bay vào vũ trụ, hơn được con thuyền Tâm Linh. Con thuyền tiểu Thiên Vũ Trụ, thể xác con người. Thái Tử phát huy vận dụng lèo lái con thuyền Tâm Linh, con thuyền tiểu Thiên vũ trụ bay đến tận Cội Nguồn vũ trụ, gặt hái những thành quả mà không thể ai cũng gặt hái được. Không có sức mạnh nào hơn được sức mạnh con người, dù cho đó là sức mạnh của Rồng, Voi, Sư Tử, Cọp, Báo, v.v... Nhưng ít ai hiểu được điều này, nếu ai hiểu được bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ, điều khiển và phát huy sức mạnh của nó, thì Di sơn đảo hải chỉ là việc nhỏ mà thôi. Chúng ta sẽ lần lượt thấy rõ Thái Tử phát huy sức mạnh tìm ẩn mật tạng bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người ở những đoạn kinh sau.

Có thể nói Thái Tử đang phát huy tiềm năng sức mạnh con người, sức mạnh tâm Linh con người, tiến sâu về bí mật vũ trụ, mở đường cứu thế, làm khiếp đảm loài Ma – Quỉ – Yêu – Tinh, đem lại hạnh phúc cho nhân loại con người, nhân loại anh em.


Sở dĩ con người yếu hơn loài Rồng, Voi Sư Tử, Hổ, Báo là vì con người không hiểu tiềm ẩn sức mạnh con người, cũng như sức mạnh tâm Linh, nên không tu Thiền luyện khí, tĩnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ. Vận hành năng lượng Vũ Trụ. Khai thông huyệt đạo kinh mạch. Vì thế bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ thể xác con người trở nên yếu ớt, bệnh tật hoành hành thời tiết xâm hại. Cũng như một xã hội mà thiếu đi Văn Hóa Cội Nguồn lại thêm các huyết mạch giao thương, trục lộ chủ chốt chật hẹp tắc nghẽn, thời xã hội đó không nói chúng ta cũng hiểu, không những lạc hậu đói nghèo lắm điều khốn khổ. Văn Hóa Cội Nguồn lưu chảy trong tâm linh chính là Nguồn sinh khí nuôi dưỡng Tinh Thần, phát huy nội lực tiềm ẩn Tâm Linh, làm tinh thần Dân Tộc lớn mạnh, không có sức mạnh nào hơn được. Thái Tử đang nỗ lực tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng nuôi dưỡng tinh Thần phát huy đến chỗ chí linh, chí Thánh.


Nói đến con người thì ai ai cũng biết có cả phần Hồn, lẫn phần Xác. Thái Tử là nhà khoa học vũ trụ. Tu Thiền luyện khí, vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, kinh mạch là ba phương án tối cao, đưa sức mạnh con người lên ngang tầm sức mạnh vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ hòa nhập vào Đại Thiên vũ trụ. Thái Tử là nhà khoa học Đa năng xã hội, nhà lãnh tụ Tinh Thần vĩ đại dân tộc, không những tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn khai thông tinh thần làm cho các Bộ Tộc, Bộ Lạc, các tầng lớp xã hội, các giáo phái, các màu da. Chủng Tộc hội nhập vào Cội Nguồn, triệu người như một, tiến tới cảnh dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, kéo dài Độc Lập, minh chứng lịch sử thời Đại Vua Hùng kéo dài hơn hai nghìn bảy trăm lẻ một năm.

Sự phát triển văn minh xã hội không chỉ là sự văn minh, máy móc, vật chất mà còn phải văn minh về thể lực đi đôi với văn minh Tinh Thần, làm chủ xã hội đi đôi với làm chủ bản thân, làm chủ ý thức, làm chủ Tâm Linh của mình. Hướng về tương lai tươi sáng, sống trong bầu không khí trong lành Đại Đồng, Bình Đẳng, Công Bằng văn minh.




Nếu chúng ta không biết khai thông nhân loại, khai thông mọi tổ chức chính trị, mọi thành phần giai cấp xã hội, mọi tôn giáo, Đảng phái. Bằng con đường Chính Nghĩa Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng Bình Đẳng, thì phải nói chúng ta đang sống trong thế giới đầy bệnh hoạn với bao nhiêu là sự bế tắc, dẫn đến bao nhiêu là xung đột, dẫn đến xã hội Địa Ngục, thế giới Địa Ngục, con người làm hại con người, đi ngược lại lời dạy của Đức Cha Trời, thì hậu quả không biết đâu mà lường. Thái Tử là nhà Đại khoa học vũ trụ, Đại khoa học xã hội Tinh Thần lẫn vật chất. Nói đến tu Thiền luyện khí là nói đến chúng ta tiến tới làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ vận mệnh xã hội. Hàng phục thói hư tật xấu, trở thành một chân Tâm trong sáng. Đại Đồng chủng tánh đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Làm chủ vận mệnh làm chủ vũ trụ. Vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo, khai thông kinh mạch, làm cho cơ thể tràn đầy sinh lực. Đẩy lùi mọi bệnh tật.


Vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, khai thống trí huệ con người, thấy rõ tương lai tốt đẹp, không còn lẩn quẩn trong phạm vi nhỏ hẹp, giống như con Ếch ra khỏi đáy giếng, gà con ra khỏi lớp vỏ trứng, với cái nhìn khác xưa cái nhìn hiểu thế nào là về sự ngu dốt của mình. Người vận hành Chân khí, cũng giống như ao hồ sông rạch xưa nay bị lu lấp, tắc nghẽn, nay bỗng cơn mưa kéo đến làm cho ao, hồ, sông, rạch không những đầy nước, lại khai thông dòng chảy, khai thông sức mạnh liên kết cùng nhau dẫn đến bất tận. Nói về con người đã được khai thông huyệt Đạo kinh mạch, thì sức mạnh toàn thân bất tận. Thái Tử thấy rõ điều đó.


Để tiến đến giai đoạn khó khăn hơn, đòi hỏi người tu Thiền luyện khí phải tập trung cao độ, cùng một lúc vận hành khai thông nhiều huyệt Đạo. Đây là một việc làm khó, đối với người căn cơ kém, còn đối với Thái Tử dẫn Chân khí từ Đan Điền xuống Khúc Cốt, Hội Âm, Trường Cường, rồi lan tỏa rộng ra Bế Quan, Xung Môn, Âm Liêm, Thừa Phụ xuống hai chân khai các huyệt Đạo bốn mặt, mặt sau, mặt trước, mé ngoài, mé trong. Từ Háng – Mông xuống các đầu ngón chân rồi vận khí chạy trở lên Xung Môn, Bế Quan.

Để vận hành Chân khí khai thông các huyệt Đạo có hiệu quả, Thái Tử nhớ rõ các huyệt Đạo vị trí huyệt Đạo nằm trên cơ thể một cách rõ ràng. Thái Tử vận hành Chân khí thông lên hai bên hông khai thông huyệt Cư Liêu rồi đến Ngủ Khu, Đới Mạch, Chương Môn.

Thái Tử vận hành Chân khí thông lên nách, khai thông huyệt cực tuyền, rồi thông lên bả vai khai thông huyệt Kiên Ngung, Kiên Tỉnh hai bên trên bả vai, để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí khai thông huyệt Đạo kinh mạch Thái Tử tiếp tục dẫn Chân khí chạy xuống hai cánh tay khai thông các huyệt Đạo ở hai mặt cánh tay mé ngoài, mé trong của hai cánh tay xuống tận các đầu ngón tay rồi dẫn Chân khí trở lại, chạy lên vai khai thông hai huyệt Thiên Đỉnh ở bả vai gần giáp cổ. Để tiếp tục cuộc hành trình vận hành Chân khí, Thái Tử dận Chân khí thông lên cổ khai thông hai huyệt Thiên Song. Chân khí cuồn cuộn thông lên đầu, khai thông các huyệt Đạo dọc theo hai bên tai lên Bách Hội.

Chân khí từ hai huyệt Thiên Song ở cổ cuồn cuộn thông lên huyệt Thiên Dung, thông lên Ế Phong, Hoàn Cốt giáp tai, rồi thông lên Chính Cung, Nhĩ Môn, Khiếu Âm, Khúc Tấn, Giác Tôn, Thừa Linh rồi thông lên Bách Hội. Hai dòng sông Chân khí hiệp lại nhau làm cho Bách Hội khai mở một cách kỳ lạ làm thông suốt các kinh mạch nhỏ lớn khắp toàn châu thân. Thái Tử thấy cơ thể nhẹ như bong bóng Thần Lực bất tận, khí lực như Đại Dương. Lúc này Thái Tử không cần tập trung ý tưởng dẫn Chân khí nữa mà ý để đâu thời Chân khí chạy tới đó.

Chân khí theo ý Thái Tử chạy xuống trán, xuống mắt, xuống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống bụng rồi trở về Đan Điền và cứ thế theo luật tuần hoàn vận hành Chân khí lưu chuyển thuần thục. Ba con sông lớn thi nhau mà chảy đem Nguồn Chân khí vũ trụ bồi đắp kinh mạch, huyệt Đạo, Tế Bào nguồn Chân khí năng lượng sống vũ trụ, từ trước ra sau, từ sau ra trước, từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu, sự tuần hoàn này Chân khí tuôn chảy đến đâu, thì các lỗ chân lông đều khai mở đến đó. Có thể nói chẳng khác gì bốn biển, năm châu, giờ đây đã được Dung Hòa, Đông Tây Nam Bắc, Trung Ương, Thượng, Hạ thành một mối, Thái Bình An Lạc Đại Đồng Bình Đẳng. Phàm, Thánh hợp nhất các thứ tệ nạn xã hội liền bị đẩy lùi hết chỗ dung thân, cũng như khai thông huyệt Đạo kinh mạch bệnh tật liền bị tiêu trừ.

Sức mạnh của một Quốc gia không phải chỉ ở một người hay một tổ chức chính trị, Đảng phái tôn giáo, không có dân thời lấy đâu có Chính Quyền, lấy dân làm gốc là đều tất yếu. Nhưng phát huy được cái gốc của dân, đó mới là điều then chốt, tiến tới xã hội văn minh, xã hội Đại Đồng Bình Đẳng mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn mới là chỗ tựa vững chắc của toàn dân. Có thể nói mỗi việc làm mỗi suy nghĩ của Thái Tử, để lại cho chúng ta những Di sản quí hiếm và không cho phép chúng ta đánh mất Di sản quí hiếm mà Tiền Nhân để lại cho chúng ta thứ tài sản vô giá này.

PHẦN THƯA HỎI

Hỏi: Thế nào là hết lòng vì dân vì nước?

Đáp: Người hết lòng vì dân vì nước là người thương yêu Đồng Bào như thương yêu máu thịt của mình, suốt cuộc đời chỉ lo cho dân cho nước mà không đòi hỏi cầu lấy Danh, Lợi, địa vị nào cả. Không bao giờ dìu dắc Đồng Bào vào cảnh anh em tương tàn, nồi da nấu thịt. Đi đầu trong mọi lĩnh vực nhân cách Đạo Đức, Trung Hiếu mãi mãi tôn thờ truyền thống dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn. Những kẻ giả nhân giả nghĩa, giả Đạo giả Đức làm hại dân tộc, làm hại non sông Tổ Quốc, chỉ lừa dối những kẻ thiếu hiểu biết, lừa dối Thần Thánh sao được. Và cán cân Công Lý vũ trụ sẽ chuyển xây vận mệnh kẻ ấy vào Thiên La Địa La trùng trùng tai họa. Danh, tánh của những kẻ ấy sẽ được công luận lên án, đời đời bị Thiên Hạ nguyền rủa.

Hỏi: Thế nào là đặt niềm tin đúng chỗ.

Đáp: Tin Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh dân tộc. Tinh Hoa Truyền Thống Dân Tộc là nguồn nước Thánh Quốc Bảo Chí Tôn, Chí Thánh của dân tộc mà Ông Cha ta đã dày công vun đắp, truyền lại cho chúng ta.

Hỏi: Thế nào là lợi dụng Tôn giáo Đạo giáo phục vụ cho mưu đồ xâm lược?

Đáp: Các thế lực ngoại xâm họ thường lợi dụng học thuyết chân chính, của các Tôn giáo Đạo giáo những giáo điều của Tôn giáo Đạo giáo có lợi về mặt chính trị, họ liền áp dụng đầu độc dân tộc ta, làm cho dân tộc ta quên đi Nguồn Cội, sa ngã bị mê hoặc, làm mất đi ý chí tự cường, ý chí trung Hiếu, lu mờ truyền thống Con Rồng Cháu Tiên. Cụ thể dân tộc ta vô cùng khốn khổ phải chịu cảnh nô lệ hàng nghìn năm, sống trong chảo dầu biển lửa, sống trong kìm kẹp với hàng trăm lớp trói chính sách của quân xâm lược, dân ta phải chịu cảnh trâu cày ngựa cưỡi, đói nghèo lạc hậu khốn khổ vô cùng. Các học thuyết Tôn giáo Đạo giáo một khi các thế lực ngoại xâm lợi dụng biến chúng thành con dao nhiều lưỡi, uy hiếp tinh thần dân tộc. Vì hiểu tính cách lợi hại con Dao nhiều lưỡi này mà quân xâm lược luôn luôn mang theo nó, để uy hiếp đè bẹp tinh thần dân tộc ta, nên chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Cảnh thực hư của các giáo điều mà chúng luôn luôn dùng những giáo điều ấy mở đường cho xâm lược. Một dân tộc Rồng Tiên bị chúng trói vào giáo điều và chúng cho đó là pháp luật, thì con Rồng biến thành con giun ngay. Chúng Ta hãy hội nhập Văn Hóa Cội Nguồn chính là diệu dược Linh Đơn một khi uống vào liền thấy rõ chân tướng của loài Hồ Ly, Cáo, Sói.

Hỏi: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào nguy hiểm hơn?

Đáp: Giặc nội tâm. Giặc ngoại xâm. Giặc nào cũng nguy hiểm nhưng giặc nội tâm càng nguy hiểm hơn, muốn cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Thì phải loại bỏ thói hư tật xấu ra khỏi Linh Hồn của mỗi chúng ta, giặc thói hư tật xấu là thứ giặc vô cùng nguy hiểm, đồng bọn của chúng là giặc dốt, giặc ngu si, giặc mê muội. Chúng hùa nhau tham lam, vơ vét của dân, của nhà nước, trộm cướp là thứ giặc con, đặt ra chính sách bóc lột làm cho dân khốn đốn, giặc Cha thứ giặc luôn luôn bốc mùi tàn bạo. Một xã hội ấm no Thái Bình Hạnh Phúc là một xã hội đầy lòng Chân Chính, Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa cao. Muốn hiểu rõ sự nguy hại của thói hư tật xấu giặc nội tâm, thì phải dùng đến gươm Thiên trí Huệ trong Văn Hóa Cội Nguồn, báu vật của Trời Đất, có đủ ba ánh sáng để tiêu diệt chúng.

1: Đó là ánh sáng Công Lý Chính Nghĩa Đạo Đức truyền thống dân tộc.

2: Là ánh sáng Chân Lý Đạo Pháp Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ.

3: Là ánh sáng Luật pháp, công bằng xã hội.


Ba nguồn ánh sáng này một khi đã chiếu lên, tức thời u minh non sông Tổ Quốc tan biến ngay. Trả lại cho con người Tâm Hồn trong sáng, giặc nội Tâm sẽ lùi sâu vào tâm thức dần dần bị tiêu diệt, thay vào đó là một Tâm Hồn vị tha và đầy lòng quả cảm. Đẹp như Tiên và mạnh như Rồng.

* * *

Hết phần 4 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 5 chương 9.

* * *
 
CHƯƠNG 9

PHẦN 5

GIAI ĐOẠN 3

TU THIỀN LUYỆN KHÍ


Thái Tử giờ đây, nhất cử nhất động đều phát tuôn thần lực, ai nhìn thấy cũng khiếp vía. Các lỗ chân lông đều khai mở, Chân khí thu nạp vào Đan Điền liền thông suốt đến các lỗ chân lông ngay, người tu luyện đến đây đã là kinh khiếp lắm rồi nhưng đối với Thái Tử thì chưa đạt, phải tiến lên một nấc cao hơn nữa.

Thái Tử tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông, một phương pháp tối cao của người tu Thiền luyện khí. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy, tiến đến phương pháp hít thở theo lỗ chân lông là để phát huy sức mạnh toàn năng cơ thể con người Tiểu Thiên vũ trụ. Đây là một phương pháp hơi khó nhưng đối với Thái Tử thì không thấy khó tí nào cả, còn đường đi Thái Tử cho ta thấy, phát huy sức mạnh toàn thân, Tiểu Thiên vũ trụ, thì phải có phương pháp đối với cơ thể, binh pháp đối với xã hội. Phát huy sức mạnh toàn năng Tiểu Thiên vũ trụ, thì phải tu Thiền luyện khí, tĩnh tâm thu nạp năng lượng vũ trụ, vận hành Chân khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, khai thông các lỗ chân lông, 8 muôn 4 nghìn lỗ chân lông một khi đã hít thở thu nạp năng lượng vũ trụ, thì bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ đã hội nhập vào bộ máy Đại Thiên vũ trụ, thu hút sức mạnh vũ trụ chuyển thành sức mạnh của mình.

Phát huy sức mạnh của một Quốc gia không khác gì mấy, 80 triệu dân hay 100 triệu dân, ví như mỗi người dân là mỗi đầu Lông của Tổ Quốc, các thành phần tổ chức Đảng phái, Tôn giáo, Đạo giáo các dân tộc anh em, ví như các huyệt Đạo của Tổ Quốc và sự giao thương với nhau, ví như là các kinh mạch.

Văn Hóa Cội Nguồn chính là năng lượng sống, cả ba mặt, khoa học, Tinh Thần, vật chất, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn, lưu chuyển khai thông, thời kinh mạch giao thương liền được thông suốt mở rộng, đời sống xã hội tiến tới đỉnh cao nhanh chóng. Một đất nước như thế, không nói chúng ta cũng hiểu, đất nước ấy không những vững mạnh về vật chất mà mạnh cả Tinh Thần và cả sức mạnh toàn xã hội Tổ Quốc. Đất nước ấy dù có nhỏ, dù ít dân nhưng khó có đất nước nào đánh bại, dù cho đó là cường Quốc dân số hơn gấp mười lần. Đất nước ấy tuy dù ít dân nhưng dân tộc ấy là dân tộc Rồng Tiên thật sự.

Đức Mẹ Trời ÂU CƠ khi sinh ra nhân loại thể xác con người, thì loài Rồng hủy bỏ thân xác loài Rồng, Linh Hồn Loài Rồng đầu thai vào con người làm chủ bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ trước nhất, còn các loài khác lần lượt đầu thai làm chủ thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ kế theo sau. Một dân tộc mà sức mạnh như Rồng, đẹp như Tiên, thử hỏi thế lực nào chống nổi.

Sức mạnh của một Quốc gia mà chỉ mạnh ở Vua Quan hay của một Đảng phái, thời sức mạnh Quốc gia ấy chỉ là sức mạnh của con người bình thường, không phải sức mạnh của con người đã khai thông huyệt Đạo kinh mạch. Vì vậy sức mạnh của một Quốc gia không chỉ ở Vua Quan hay một Đảng phái thống trị mà là sức mạnh toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị và Văn Hóa Cội Nguồn chính là rường cột tạo lên sức mạnh đó.

Sức mạnh vô tận của con người là dùng Chân khí năng lượng sống vũ trụ khai thông huyệt Đạo kinh mạch, tạo lên sức mạnh Đại Đồng Tổng Thể từ vô hình cho đến hữu hình, từ Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng cho đến Thể Đặc, sức mạnh tiềm ẩn của con người đã được phát huy.

Dân giàu nước mạnh, nước mạnh thì trổ Hoa Độc Lập, Hoa Độc Lập bền vững là nhờ đã kế thừa được cái quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên, quả truyền thống mỗi ngày mỗi to lên là nhờ Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn làm cho nó phát triển càng lớn mạnh. Lại một lần nữa Thái Tử cho ta thấy bài học Căn Cội của sự thống nhất, bài học phát huy sức mạnh toàn dân, phát huy nội lực tìm ẩn xã hội. Bài học phát huy nội lực toàn dân, đưa con người đưa xã hội tiến đến cảnh giới tối cao, cảnh giới Cực Lạc.

Trở lại vấn đề chính. Thái Tử ngoài Tý – Ngọ – Mẹo – Dậu tu Thiền luyện khí, còn các giờ khác Thái Tử tu tập hít thở theo lỗ chân lông, đầu tiên thấy hơi khó nhưng sau đó trở thành thói quen, Chân khí theo lỗ chân lông ra vào thông suốt. Thái Tử chỉ cần hít một luồng Chân khí vận dụng toàn thân, tức thời thân hình bốc cao lên khỏi mặt đất ngay. Thái Tử đã biết mình đạt đến đỉnh cao của võ thuật, quyền pháp, chưởng pháp đỉnh cao của Thiên Tiên, Địa Tiên.

Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn rất xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới tối cao của vô minh. Đây không phải việc làm mà ai ai cũng làm nổi, phải Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi, Đại trí huệ mới vượt qua nổi. Trong cảnh giới tối cao của vô minh, những cảnh giới xuất hiện càng lúc càng kỳ bí, những cảnh tượng khủng khiếp, những cảnh tượng êm đềm mãi hiện ra bất tận, nếu không làm chủ cái thấy nghe hay biết của mình, khởi tâm phân biệt chạy theo sự thấy nghe hay biết, thì tức khắc rơi vào Ma Đạo, Quỉ Đạo ngay, mắc vào bẫy lưới của Ma Vương và Đại Quỉ đã ẩn sâu tận đáy Tâm Hồn của con người, tất cả đều đã hiện ra. Cứ một đoạn đường tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ là mỗi lần Thái Tử đổi phương pháp tu luyện.

Nói về xảo nữ Thị Tỳ, vừa đem đồ ăn thức uống rời khỏi cấm cung, thì nghe tiếng nói vọng đến từ rất xa:

Cúc Phương cứ bảy ngày ngươi mới đem đồ ăn thức uống đến vào buổi trưa đúng Ngọ, vì ta sắp sửa nhập Thiền vào cảnh giới Đại Định, không được cho ai tới gần khu rừng cấm nhất là nơi ta đang nhập Định.

Cúc Phương khiếp vía tưởng là mình đang nằm mơ, cứ rờ tai dụi mắt chừng nhìn giỏ đồ ăn cùng xe ngựa mới biết là mình không có nằm mơ. Cúc Phương nhìn quanh nhìn quất không thấy Thái Tử đâu cả, đâm ra sợ hãi, hỏi:

Có phải Thái Tử dạy bảo tỳ nữ đó không?

Cúc Phương lại nghe tiếng nói của Thái Tử như con Muỗi vo ve:

Ngươi không thể thấy ta được đâu vì ta đang ngồi trong thiền phòng khu rừng cấm. Thôi ngươi trở về đi, 7 ngày sau ngươi đem đồ ăn thức uống đến theo lời dặn của ta khi nảy.

Cúc Phương nghe xong càng khiếp vía, vì từ đây đến nơi Thái Tử rất xa đến mấy dặm đường, Cúc Phương bỗng chuyển sợ hãi thành niềm vui, hay là Thái Tử thành Đạo rồi, có lẽ là thế.

Xảo nữ Thị Tỳ Cúc Phương đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Thần Long Nữ mẹ của Thái Tử cùng Kinh Dương Vương Cha của Thái Tử nghe. Nghe xong Thần Long Nữ, Kinh Dương Vương vô cùng mừng rỡ. Nghĩ con ta Đắc Đạo thật rồi ngũ thông khai mở. Kinh Dương Vương lại nghĩ Con hơn Cha là nhà có phúc, ta tu luyện đã hơn 70 năm cũng không được thế, có lẽ hơn hẳn các Đạo sĩ, tu sĩ của các giáo phái rồi. Thần Long Nữ cũng nghĩ như vậy liền nói: Đã Đắc Đạo cao đến thế còn tu luyện nữa để mà làm gì? Kinh Dương Vương hồi tưởng lại lời nói của Thái Tử trước đây thở dài nói.

Hùng Lan sở dĩ dốc sức tu luyện để tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, cái gì là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thật quá mơ hồ vời vợi, chưa bao giờ nghe nói, nói chi đến việc nhìn thấy. Thần Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế cũng thở dài theo càng lo lắng cho Thái Tử, dặn tỳ Nữ Cúc Phương rằng việc hôm nay ngươi không được nói cho ai biết. Cúc Phương vâng dạ rồi lui ra. Địa Tiên lấy Chân khí làm Đạo. Thiên Tiên thì tiến xa hơn nữa, tham thiền quán tưởng hành Đạo. Nói 1 cách dễ hiểu, Địa Tiên chú trọng về Khí. Thiên Tiên chú trọng về Pháp.

* * *

Hết phần 5 chương 9 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 10.

* * *



CHƯƠNG 10

PHẦN 1

PHÁP THUẬT THẦN THÔNG


Tuy Thái Tử biết mình đã đạt đến cảnh giới tối cao vượt trên cả Thiên Tiên và Địa Tiên. Nhưng con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn còn quá xa, vì còn phải vượt qua cảnh giới vô minh của vô lượng kiếp, đầy khó khăn gian truân nguy hiểm. Nếu không hội ngộ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, hàng phục tâm viên ý Mã, thì dễ mắc vào bẫy lưới của Vô Minh, Ma Vương và Đại Quỉ, rơi vào con đường tà Đạo thì nguy hiểm biết là bao. Theo sự nhận biết của Thái Tử, muốn tiến sâu vào Mật Tạng vũ trụ, thì phải hiểu rõ Duy Thức chủng Tánh, Cội Nguồn của muôn loại pháp thuật Thần Thông, pháp thuật Thần Thông biến hóa, theo căn nguyên của Duy Thức. Duy Thức là cái biết đã khởi tưởng phân biệt. Ý Thức là Thần Chủ của Lực. Lực là chủ của Khí. Khí là chủ của Nước mà Nước là chủ của Đất. Hay nói một cách dễ hiểu.

Duy Thức là do bản thể Linh giác Chân Tánh phân biệt khởi niệm tạo ra. Chân Tánh ví như Nước, Thức Tánh ví như bọt Nước. Duy Thức Tánh bọt Nước sanh ra liền làm chủ Thể Lực mà Thể Lực là chủ của Thể Khí mà Thể Khí là chủ của Thể Lỏng Nước, Nước lại là chủ của Thể Đặc Đất. Sự liên kết của Ngũ Thể.

1: Thể Thức

2: Thể Lực

3: Thể Khí (Hơi)

4: Thể Lỏng (Nước)

5: Thể Đặc (Đất)


Thành một chuỗi nhân duyên hệ thống dây chuyền liên kết móc xích cuốn hút vào nhau.

Chỉ cần ý tưởng khởi niệm chuyển động thì Thể Lực, Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc bị cuốn hút hoặc phản ép theo ý tưởng ấy ngay. Tất cả mọi suy nghĩ, mọi suy tưởng, mọi suy luận đều gọi là Duy Thức cả, pháp thuật Thần Thông, không ngoài nguyên tắc, Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức luân phiên biến hóa, tạo ra cảnh giới Duy Thức Thần Thông.

Duy Thức Thần Thông, Duy Thức Suy Luận, Duy Thức Suy Tưởng, Duy Thức Khoa Học, Duy Thức thuộc hệ nhận thức, Duy Thức thuộc hệ Vô Thức, Duy Thức thuộc hệ tưởng không phải là tưởng, phi phi tưởng xứ, v.v... Nói chung những nhóm hệ Duy Thức này được Thái Tử phát huy khai thác tận dụng rốt ráo.

Duy Thức Thần Thông là loại Duy Thức pháp thuật Thần Thông biến hóa, có một sức mạnh tổng thể nối liền từ vô hình đến hữu hình, từ vô sắc đến hữu sắc, từ vô tướng đến hữu tướng, vô vi chuyển hóa hữu vi. Vì thế ý tưởng đã khai tưởng ra cảnh giới gì thì Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức ứng dụng biến hiện ra cảnh giới ấy, thu hút cuốn hút Lực khí nước đất ứng dụng theo hiện ra cảnh giới đó, gọi là pháp thuật Thần Thông.

Duy Thức Thần Thông là hệ Duy Thức Mật Tạng đa dạng biến hóa khôn lường, không thể nào luận bàn cho hết được, nếu không phải là Phật Trí, Thánh Trí thì khó mà nhận biết được. Chỉ một việc Thái Tử mới khởi tưởng về Thần Thông, thì các hệ Duy Thức khác liền hội nhập vào ý tưởng đó ngay. Giống như ánh sáng nhập vào ánh sáng, không có sự chướng ngại nào cả, hàng vạn hệ Duy Thức hội nhập vào một hệ Duy Thức không chướng ngại gì cả mà chỉ làm tăng thêm uy lực mầu nhiệm biến hóa cho pháp thuật Thần Thông mà thôi. Để hiểu thêm pháp thuật Thần Thông, vô vi chuyển hữu vi, vô hình chuyển hữu hình, sự chuyển vận đó phải qua trung gian, Thể Lực và Chân khí.

Ý Thức khởi tưởng, Duy Thức vô vi, Lực – Khí là Thể Lực vừa vô vi vừa hữu vi, Thể Lỏng, Thể Đặc thuộc hữu vi. Một khi ý Thức khởi tưởng chuyển biến thì Thần Lực Chân Khí cuốn hút chuyển biến theo, thu hút Thể Lỏng, Thể Đặc Nước Đất hiện ra cảnh giới ý tưởng của Duy Thức. Có thể nói cảnh giới ý tưởng vô vi thuộc hình, cảnh giới hữu vi chỉ là cái bóng của ý tưởng Duy Thức mà thôi. Hay nói một cách khác, cảnh giới tâm thức luôn luôn tồn tại trong tâm thức (Hình). Cảnh giới hữu vi chỉ là cái bóng của Hình, đã là cái bóng của Hình, đủ nhân duyên thì nhóm hợp theo nghiệp lực của Hình, hết nhân duyên nghiệp lực thì tan rã, từ Thể Hơi, Thể Lỏng, Thể Đặc trở xuống, còn Duy Thức cảnh Hình không tan hoại nhập vào pháp Tạng Duy Thức, lưu trữ tại đây. Nói tóm lại, Linh Hồn cùng thể xác chung một nhịp sống, như bóng với hình, như hình với bóng, nối liền với nhau qua nhịp cầu trung gian Thể Lực và Thể Khí. Một khi Chân Khí Thể Lực cạn kiệt thì Linh Hồn thể xác tách đôi, Hình còn Bóng mất.

Vì vậy Linh Hồn muốn bảo tồn sự trường thọ của thể xác, thì phải tu Thiền luyện khí, người thường Tục không hiểu được điều này nên không chú trọng đến tu Thiền luyện khí, để kéo dài tuổi thọ, người thường Tục Chân Khí và Thần Lực chỉ đủ duy trì sự sống, thông qua lối hít thở theo quán tính tự nhiên bình thường. Nên đối với việc pháp thuật Thần Thông thì rất xa lạ, thật ra pháp thuật Thần Thông luôn luôn tồn tại bên họ, cũng giống như mù không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng thật ra ánh sáng mặt trời ở ngay trên đầu họ, chẳng ảo tưởng xa xôi chút nào.

Thần Lực vũ trụ, Chân Khí vũ trụ không ở đâu xa luôn luôn tồn tại ở sát bên người nhưng ít ai nhận ra giá trị Chân Khí, Thần Lực năng lượng sống vũ trụ, sức mạnh vũ trụ, để rồi thu nạp Chân Khí, Thần Lực vũ trụ làm tăng sức mạnh con người, con người phàm tục vì không nắm bắt được năng lượng sống vô giá ấy, nên phải làm con người thường tục, thân xác nặng nề đầy rẫy bệnh tật, tiếc thay.

Thái Tử là nhà Khoa Học vũ trụ quá hiểu rõ điều này, nên việc tu Thiền luyện khí mau đạt kết quả, kết tụ nhị xác thân nhanh chóng Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ Đỉnh, Ngũ khí triều dâng, nên việc tu luyện thuật xuất Hồn ra khỏi thể xác phàm tục, Linh Hồn Thái Tử giờ đây đã có nhị xác thân, tức là cái Thân Tinh, Khí, Thần, đã kết tụ do tu Thiền luyện khí kết hợp với Tinh Thể của Thái Tử tạo ra.

Trước khi luyện tập pháp thuật xuất hồn Thái Tử ngồi xếp bằng điều hòa Chân Khí. Sau đó thì yên lặng trong cảnh giới Đại Định, rồi khởi tưởng Linh Hồn bay lên ra khỏi xác thân, rồi hạ xuống nhập vào thi thể, cứ thế Thái Tử tập đi tập lại nhiều lần, càng lúc càng thuần thục hơn cho đến khi xuất hồn nhập hồn như ý.

Để mở rộng thêm phạm vi hiểu biết về Thuật xuất hồn, đối với việc xuất hồn rất dễ đối với người tu Thiền luyện khí, nhất là những người tu Thiền luyện khí đã kết tụ nhị xác thân. Còn rất khó khăn đối với người thường tục, vì Linh Hồn người thường tục phần lớn Linh Hồn hoạt động đều nương theo thể lực, con người nương khí hít thở theo tự nhiên quán tính của con người nên khó mà xuất hồn ra khỏi thể xác phàm tục vì bị lệ thuộc vào Thần Lực, Chân Khí của thể xác, bộ máy sống tiểu Thiên vũ trụ. Vì tu Thiền luyện khí nên Linh Hồn Thái Tử không còn phụ thuộc vào Thần Lực Chân Khí sẵn có của thể xác mà còn làm cho thể xác Thần Lực, Chân Khí sung mãn đạt đến cảnh giới Tam Hoa tụ đỉnh, ngũ khí triều dâng. Lúc này Thái Tử chỉ cần một ý niệm khởi tưởng, tức thời Thần Hồn Thái Tử nhị xác thân ra khỏi thể xác phàm tục ngay. Lúc này nếu có người để ý thì không khỏi kinh ngạc, vì nơi Thiền phòng luôn có mặt hai Thái Tử, một Thái Tử ngồi Thiền, một Thái Tử đang hoạt động như bóng Ma. Thể xác phàm tục từ đây đối với Thái Tử chỉ là một lớp áo da Thái Tử thường mặt mà thôi.

Và cho đến một hôm, Thái Tử liền xuất hồn ra khỏi lớp áo da thể xác phàm tục tưởng mình bay lên không trung nhắm hướng trung Đông, Tây Tây Bắc bay đến dãy núi cao nhất vùng Tây Tạng. Nhị xác thân là thân xác Tinh Khí Thần. (Thần Lực, Chân Khí và Tinh Khí). Thể xác nầy nhẹ, không những giảm đi lực ép của vũ trụ mà còn giảm luôn lực hút của trái Đất, th.ân thể luôn theo ý Linh Hồn muốn nặng thì nặng, muốn bay thì bay. Đứng trên đỉnh núi của dãy núi cao nhất, có lẽ nghìn năm không có dấu chân người, có lẽ đây chính là nơi lý tưởng để cho Thái Tử tu luyện pháp thuật Thần Thông.

Thái Tử đứng trên đỉnh núi cao hớp một luồng Chân Khí, tức thời Thái Tử bỗng to như người khổng lồ, nếu lúc này có người nhìn thấy họ sẽ khiếp hoảng sợ hãi ngất đi.

Đây nói về thể xác phàm tục Thái Tử vẫn luôn trong tư thế ngồi Thiền, tim vẫn đập máu vẫn lưu thông, vì sao lại có chuyện lạ như thế. Không có gì là chuyện lạ cả, thể xác con người là bộ máy sống, chỉ cần có Chân Khí là nó vẫn sống động bình thường. Thái Tử đã khai thông kinh mạch huyệt Đạo, lại khai thông các lỗ chân lông, lại tập cho bộ máy sống thể xác thu nạp Chân Khí theo lỗ chân lông, bộ máy sống thể xác tự nó hấp thu Chân Khí nên lục phủ ngũ tạng hoạt động bình thường, máu huyết lưu thông nhờ huyệt Đạo kinh mạch thông suốt. Thể xác thường không được thế, khi Linh Hồn rời khỏi thể xác, thì phổi ngừng thở không thu nạp được năng lượng sống Chân Khí vũ trụ, nên lục phủ ngũ tạng ngưng hoạt động theo, thể xác dần dần tan rã. Thể xác Thái Tử như cổ máy thu hút năng lượng sống Chân Khí vô tận, cũng giống như người tài xế đã rời khỏi xe nhưng xe vẫn còn nổ không tắt vì còn đầy đủ nhiên liệu đủ yếu tố để hoạt động.

Nói về Thái Tử ở trên đỉnh núi cao hớp một luồng Chân Khí làm cho Chân tướng trở nên to lớn dị thường. Pháp thuật Thần Thông là pháp thuật do Duy Thức ứng dụng năm nguyên tắc để biến hóa là Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức để biến hóa. Thức sắc, thức thọ, thức hành, thức biến hay nói một cách dễ hiểu, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và ý thức. Khởi dụng Thần Thông biến hóa, nếu không phải mắt Phật mắt Thánh thì không thấy nổi. Muốn biến thành cọp hay biến mình thành cọp trước tiên Thái Tử hình dung con cọp (Thọ) rồi khởi tưởng ra con cọp (Tưởng) hiện rõ màu sắc móng vuốt mắt mũi (Sắc) con cọp đang sống động (Hành) sau cùng là ý thức khởi động con cọp tự nhận thức ra mình là cọp (Thức biến). Cuộc hành trình pháp thuật Thần Thông như sau. Trước tiên Thái Tử hình dung con cọp, đó là sự hình dung tổng quát chưa rõ nét (Thọ Thức) thức thứ 2 liền xuất hiện. Khởi tưởng hình con cọp rõ nét hơn (Tưởng Thức) thức thứ 3 liền xuất hiện làm cho con cọp lộ rõ màu sắc đến rõ nét hoàn hảo (Sắc Thức) thức thứ 4 xuất hiện làm cho con cọp sống động (Thức Hành). Sau cùng là thức, thức thứ 5 ý thức tự nhận thức ra mình và chuyển động toàn thân theo ý muốn, tức thời thân hình Thái Tử biến mất thay vào đó là một hình thể con cọp. Để hiểu thêm về pháp thuật Thần Thông, ví như người làm bánh, có bột mới làm bánh, không có bột muốn làm bánh cũng không làm được, bột làm bánh ở đây là nói đến Tinh Khí Thần, người thường cũng có Duy Thức, khởi ra sắc thọ tưởng hành thức, đó chỉ là cái khuôn trống rỗng, vì thiếu bột để thành bánh. Thái Tử thời lại khác có cả khuôn lẫn bột đầy đủ chỉ cần người thợ khéo tay sẽ làm ra đủ dạng hình của bánh.

Thái Tử tu luyện thuật biến hóa chỉ trong chốc lát đã thành thục. Thái Tử chỉ khởi tưởng ra hình con cọp to lớn, tưởng mình là cọp đang vồ lấy con mồi, tức thời một lằn chớp nổi lên, Thái Tử biến đâu mất, một con cọp xuất hiện ngay sau đó, chạy nhảy một hồi, con cọp lắng yên tâm trí trở lại, hồi tưởng về mình là Thái Tử, con cọp tức thời rùng mình biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ như thế Thái Tử tu luyện tập đi tập lại Thần Thông biến hóa từ chậm cho đến nhanh, chỉ cần khởi tưởng liền biến hóa được ngay. Đúng là ý đã khởi thì thức đã biến ra hình dạng nào, thời Tinh Khí Thần cuốn hút theo hiện ra hình tướng đó.

Để có pháp thuật Thần Thông biến hóa cao hơn, từ biến hóa đơn tiến lên biến hóa phân thân. Thái Tử ngồi yên lặng 2 bàn tay bắt ấn cung Dần khởi tưởng ra năm con cọp lớn, theo phương vị ngũ hành. Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Con màu xám, con màu vàng, con màu đen, con màu trắng, con màu đỏ. Khởi tưởng cho đến khi thấy rõ năm con cọp hiện ra trong tâm thức hết sức sinh động rõ ràng từng bộ phận, sắc lông, miệng mũi, chân cẳng, móng vuốt nhất nhất sinh động rõ ràng. Lúc ấy Thái Tử đã quên mình, và chính mình là năm con cọp, với tư thế sắp vươn mình chạy nhảy. Năm con cọp liền hớp một luồng Chân Khí, đồng loạt vươn mình tung bay chạy nhảy, tức thời một lằn chớp nổi lên Thái Tử liền biến mất, thay vào đó là năm con cọp to lớn hiện ra, với khí thế hung hãn vô cùng gầm rú chạy nhảy làm vang động cả núi rừng, Chim muôn dã thú kinh hồn khiếp vía, sau một hồi chạy nhảy gầm rú, khí lực hùng hãn dần dần hạ xuống tâm ý trở lại lắng trong, năm con cọp đã nhận thức ra mình là Thái Tử, liền xả ấn rùng mình biến mất hoàn hình trở lại là Thái Tử. Cứ theo phương pháp ấy Thái Tử biến thành năm con cọp, rồi lại hoàn hình trở lại, luyện đi luyện lại mãi, luyện đến xuất thần nhập hóa, vừa khởi tưởng thời năm con cọp đã hiện ra.

Đối với người thường tục cho việc pháp thuật Thần Thông là một sự huyền bí, lắm khi còn cho đó là huyền thoại không thật có. Còn đối với người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cũng như người tu Thiền luyện khí, thì pháp thuật Thần Thông là đều có thật, hể dày công tu luyện thì có nó. Đối với người giác ngộ Chân Tánh, thấu rõ Chân Tâm, thì pháp thuật Thần Thông chỉ là trò ảo thuật khoa học mà thôi. Liên kết ý tưởng liên hợp Duy Thức biến hiện tạo ra cảnh giới Duy Thức vô vi, cuốn hút Tinh Khí Thần hiện ra cảnh giới hữu vi, cảnh giới Duy Thức là hình, cảnh giới vật thể là bóng, hình và bóng giống hệt nhau, liên kết giữa hữu và vô, giữa Thức, Lực và Chân Khí Tinh Khí.

Muốn đạt được pháp thuật Thần Thông phải dựa vào cơ sở yếu tố của nó. Thần Lực, Chân Khí, Tinh Khí và ý tưởng của hệ Ngũ Thức, Sắc Thức, Thọ Thức, Tưởng Thức, Hành Thức và ý thức gọi chung năm thức này là Duy Thức Thần Thông, tất cả cảnh giới trong tâm thức là do năm thức này khởi tạo ra cả, người mê lầm tưởng cảnh giới trong tâm, cảnh giới hiện thực trần gian là thật, còn người giác ngộ Chân Tánh thấu rõ Chân Tâm, cảnh giới nhân gian là do Duy Thức Chân Tâm, Chân Tánh vũ trụ tạo ra, tất cả chỉ là ảo thuật không thật. Cũng giống như năm con cọp do Thái Tử biến ra tất cả đều không thật. Thái Tử là bậc trí huệ Chánh giác, căn cốt vào hàng thượng đẳng, nên tu Thiền luyện khí chỉ có mấy năm thành tựu kết quả ít ai làm nỗi. Thái Tử nhận định, muốn tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn, thì việc tu Thiền luyện khí rất cần thiết, vì tu Thiền luyện khí trí huệ sẽ khai mở thì coi như đã có ánh sáng soi đường đi đến tận cùng Cội Nguồn vũ trụ, tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn cứu nhân loại thoát khổ. Muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, việc trước tiên là phải khai thông trí tuệ, như người mù đã được sáng mắt, như người điếc đã được thông tai, sau đó mới nói đến vận dụng. Lực, Hùng, Bi, Trí, Nhẫn, Dũng, Chí, Đức. Để vượt qua bao chướng ngại đến nơi đến đích. Đức tính thương người cứu dân độ thế là động lực thôi thúc Thái Tử vượt qua bao gian khổ, khám phá ra bao bí mật vũ trụ làm lợi ích cho cuộc sống con người.

Thái Tử nhận định việc khai thác tài nguyên vũ trụ, trong đó Thần Lực Thể Lực vũ trụ, Chân Khí, Tinh Khí vũ trụ năng lượng sống là quí hiếm hơn cả. Thái Tử không phải là nhà Đạo sĩ, Tu sĩ mà là nhà khoa học vũ trụ, tìm con đường cứu thế, đưa xã hội nhân loại đến đỉnh cao của sự văn minh Tinh Thần lẫn vật chất.

Theo Thái Tử một xã hội văn minh không chỉ văn minh Tinh Thần lẫn vật chất mà còn văn minh làm trong sạch môi trường, trong lành không khí. Nếu không phải thế, thì xã hội đó là sự văn minh mở đường cho xã hội bệnh hoạn rác rưởi, mùi hôi thối độc hại khắp nơi, làm thiệt hại cho dân chúng, cho nhà nước rất lớn. Xã hội văn minh là xã hội tự biết phát huy nội lực sẵn có của mình, biết khai thác tài nguyên năng lượng sống vũ trụ, bồi đắp cho xã hội con người. Theo Thái Tử phát huy Thể Lực con người, đẩy lùi bệnh tật, tăng trưởng trí huệ là cơ bản then chốt, thiết yếu nhất.

Muốn khai thông trí huệ, Thể Lực con người không chỉ học và hành. Thể Dục Thể Thao luyện quyền múa kiếm mà còn phải tu Thiền luyện khí, khai thông huyệt Đạo kinh mạch, Chân Tâm hướng Thiện, duy trì Chính Nghĩa. Phát huy sức mạnh Tinh Thần Dân Tộc, không có con đường nào khác hơn, là tiếp thu Văn Hóa Cội Nguồn, vận hành Văn Hóa Cội Nguồn lưu chuyển khai thông mọi tầng lớp xã hội các Đảng phái, Tôn Giáo, các màu da, chủng tộc, anh em tiến gần tới công bằng văn minh xã hội.

Phát huy sức mạnh phát triển vật chất xã hội không có con đường nào khác hơn là hiểu rõ tài nguyên vũ trụ. Khai thác tài nguyên Thần Lực vũ trụ, tao ra điện năng phục cho xã hội đời sống con người. Trong Thể Lực vũ trụ có Điện Lực vũ trụ. Trong Chân Khí vũ trụ có Dầu Khí vũ trụ. Điện Năng và Dầu Khí là 2 nguồn tài nguyên vô giá sống còn của máy móc, hai nguồn tài nguyên này dồi dào, thì mới làm thay đổi được bộ mặt nghèo nàn của xã hội. Ở thế gian máy móc thực dụng phục vụ con người phục vụ phát triển đời sống xã hội, còn ở Thiên Đàng máy móc thực dụng còn gọi là Bảo Bối. Nói cho cùng máy móc thực dụng thế gian hay máy móc thực dụng Bảo Bối ở Thiên Đàng. Mục đích chung cũng chỉ là để phục vụ cho con người đời sống xã hội mà thôi.

Nói về Thái Tử tu luyện pháp pháp thuật Thần Thông cũng vậy, chỉ cần biết cách khai thác tài nguyên năng lượng sống Thần Lực vũ trụ, Chân khí vũ trụ, thu nạp vào bộ máy Tiểu Thiên vũ trụ con người, khai thác Duy Thức tâm linh làm nên những điều huyền diệu của pháp thuật Thần Thông. Người thường tục sức mạnh Linh Hồn chỉ dựa vào Thể Lực sẵn có tự nhiên của thể xác bộ máy sống con người nhưng Linh Hồn con người không hiểu thế, lại còn hoan lạc phung phí Tinh – Khí lực con người dẫn đến kiệt huệ tinh khí lực nhanh chóng, làm cho th.ân thể nặng nề yếu ớt đầy bệnh hoạn. Đối với người tu Thiền luyện khí thời thân khẩu ý thường thanh tịnh, như cái lu không bị lủng chảy kín mít, Tinh Lực, Khí Lực, Thần Lực, dồi dào, đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông tự tại, nếu người nào biết kiềm chế hoan lạc, giảm bớt đi sự tiêu hao Tinh Lực Khí Lực Thể Lực con người, thì hạnh phúc sẽ đến với họ vì sức khỏe quí hơn vàng, những người chỉ biết ham ăn hố uống không kiêng cữ gì cả, hoang dâm vô độ sẽ làm giảm tuổi thọ, bệnh hoạn lũ lượt sanh ra.

Xã hội máy móc chỉ cần dồi dào Điện năng và Dầu khí, làm hạ giá thành xuống thấp nhất, thì đời sống phát triển xã hội đó sẽ làm lên bao điều kỳ diệu. Một xã hội đã văn minh về vật chất, lại thêm văn minh về Tinh Thần, thấu triệt Văn Hóa Cội Nguồn, sự kết hợp phát triển ấy sẽ đem lại bao kết quả kỳ tích đến bất ngờ.

Sức mạnh con người nương vào sức mạnh vũ trụ, sức mạnh vũ trụ được con người khai thác một cách có khoa học. Thái Tử đã làm được việc ấy, sử dụng Duy Thức, ý tưởng biến hiện Thần Thông tài tình ảo diệu.

Cứ giáp tuần Thái Tử lại bay về thành Giang Nam Xích Quỷ khu vườn cấm để nhập xác ăn uống tu Thiền luyện khí vận động cơ thể. Quyền pháp, Chưởng pháp, cho huyệt Đạo kinh mạch khí huyết lưu thông, tiếp nối sự sống cho thể xác phàm tục hết ngày rồi lại đến ngày, Thái Tử lại xuất hồn ra đi đến nơi núi cao không dấu chân người tiếp tục tu luyện pháp thuật Thần Thông, khám phá thêm về bí mật của Duy Thức Thần Thông, hầu thấu rõ tài năng biến hóa của. Chúa Tể Ma Vương và Đại Quỷ, chúng được che đậy bởi cảnh giới vô minh.

Để tiến cao thêm pháp thuật Thần Thông hơn nữa, Thái Tử liền co tay bắc ấn cung Thìn niệm tưởng rùng mình liền hóa ra năm con Rồng to lớn và từ năm con Rồng to lớn mỗi con lại hít một luồng Chân Khí làm chuyển động cả núi non, sau đó thì mỗi con Rồng tự biến hóa ra hàng nghìn hàng trăm con Rồng, với cách biến hóa này thì Quỉ Ma khiếp đảm sợ đến mất hết hồn vía rụng rời chân tay với cách biến hóa này đừng nói Ma Quỉ mà ngay cả Thiên Tiên, Địa Tiên cũng ít người làm nỗi. Trên đỉnh núi cao hàng vạn con Rồng xuất hiện, làm khiếp đảm chim muôn vạn Thú. Thái Tử không những đạt đến cảnh giới tối cao của thuật phân thân, cả thuật phân Tánh chỉ có những bậc hiểu ngộ Chân Tánh, làm chủ Chân Tánh mới làm nổi.

Cách tu luyện phân thân, phân tướng, phân tánh, phân ý này là pháp thuật Thần Thông Chí Tôn vô thượng, nếu quên mất mình là ai thì khó mà hoàn hình trở lại, hàng vạn con Rồng sau cơn làm mưa làm gió, Thần Lực Khí Lực đã giảm sút, hàng vạn con Rồng nhận thức ra mình là Thái Tử tức thời hàng vạn con Rồng liền biến mất hiện nguyên hình là Thái Tử. Cứ thế Thái Tử hết tu luyện hóa Cọp rồi tới tu luyện hóa Rồng, hết hóa Rồng rồi đến hóa Công, hóa Phụng, hết loài này sang loài khác và sự tập luyện biến hóa như thế cũng mất cả hàng năm ròng.

Một hôm Thái Tử nhìn cây sanh cổ thụ hàng nghìn nghìn năm, nghĩ ta đã tập phép biến hoa Chim muông, vạn Thú, con người, Thần Thánh cho đến các loài Ma Quỉ, v.v... Ta chỉ dùng ấn thập nhị Địa Chi, ấn tam muội, ấn lưỡng nghi Âm Dương, chứ chưa dùng đến ấn ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Thế là Thái Tử dùng ấn ngũ hành để tu luyện biến hóa ra đất nước, gió lửa, cảnh quan cây cối, núi sông.

Thái Tử ngồi yên lặng với tư thế tọa thiền, ngón tay giữa ấn vào giữa lòng bàn tay, rồi ngón tay cái ấn chặt đè lên ngón tay giữa, rồi khởi tưởng ra Cội sanh, cành lá sum suê, gốc rễ chằng chịt, giống hệt cây sanh Cổ Thụ trước mắt. Trong Tâm Thái Tử cây sanh Cổ Thụ đã hiện ra nhất nhất rõ ràng, ý thức Thái Tử liền khởi động cây sanh do sắc, thọ, tưởng, hành lập nên lúc Thái Tử nhận thức cây sanh là mình, mình là cây sanh tức thời một lằn chớp nổi lên Thái Tử biến mất, thay vào đó là một cây sanh to lớn Cổ Thụ đã hiện ra giống hệt cây sanh Cổ Thụ kia, nếu lúc này có người xuất hiện thì không thể nào phân biệt được cây nào thật cây nào giả.

Nói về pháp thuật Thần Thông, thì không phải con người tu luyện mới có mà ngay cả Chim muôn vạn Thú, Ma Quỉ chỉ cần tu Thiền luyện khí lâu năm là có pháp thuật Thần Thông, kể cả các loài cây, cỏ sống hàng nghìn nghìn năm cũng có pháp thuật Thần Thông nhưng không được cao minh lắm.

Thái Tử vốn con người làm chủ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, từ bộ máy sống Tiểu Thiên vũ trụ, tu Thiền luyện khí kết tụ nhị xác thân, Thân Tướng Tiên Thiên, thọ ngang trời đất. Chim muôn vạn Thú các loài Ma Quỉ làm sao sánh được, đầy đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. Nhị xác Thân là thân tướng, vừa vô vi vừa hữu vi, có thể thấy mà cũng có thể không thấy tùy tâm ứng dụng, vì cái thân ấy là cái thân tam bửu Tinh Khí Thần. Thần Lực, Khí Lực và Tinh Khí, cái thân này muốn biến, muốn hiện là đều do Duy Thức tạo ra. Như trên Kinh đã nói Duy Thức Thần Thông là Duy Thức ngũ uẩn biến chuyển, sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức, ý thức, năm Duy Thức này đều gọi là tâm thức, năm Duy Thức này đều gọi Duy Thức ảo thuật máy móc tâm linh.

Có thể ví dụ 5 thức này như sau, ví như 5 người thợ vẽ, mỗi người có 1 cái tài khác nhau đồng vẽ 1 con chim. Người thứ nhất vẽ hình con chim. Người thứ hai vẽ lông cánh sắc màu con chim. Người thứ ba vẽ sự cảm giác cái biết của con chim. Người thứ tư vẽ sự động chuyển của con chim và người thứ năm rất quan trọng vẽ ý thức, con chim tự nhận thức ra mình rồi đập cánh bay mất. Hay có thể nói rằng năm nét vẽ chung nhau tạo lập lên con chim như thật, pháp thuật Duy Thức Thần Thông là thế. Con Chim do năm thức tạo nên là Hình, còn Tinh Khí Thần theo hình hiện bóng mà thôi, đó là thể xác hay thể chất của con Chim. Khi hình biến thì bóng theo đó cũng tan theo hình, trở về căn cội của nó.

Thể Lực vũ trụ ngày nay đã được con người khai thác, bằng cách dùng lực nam châm khuấy động Thần Lực vũ trụ thu hút tạo ra hai dòng từ trường điện lực phục vụ máy móc, phục vụ con người.

Người chưa giác ngộ Chân Tánh không bao giờ hiểu được điều nầy, đã khai thác khuấy động Thần Lực vũ trụ, tức là đã động đến bản thể Linh giác của Đức Cha Trời, vì sao lại như thế Vì trên Thần Lực vũ trụ, chính là Linh giác vũ trụ, Linh giác vũ trụ có 2 phần, Trí Thân và Giác Thân. Khi chúng ta khai thác Thần Lực vũ trụ, nói theo nghĩa Đạo, khai thác Thể Lực vũ trụ nói theo nghĩa đời.

Thần Lực vũ trụ hay Thể Lực vũ trụ cũng chỉ là một, thời coi như chúng ta đã động đến Linh giác pháp Thân của Đức Cha Trời. Linh giác pháp thân vũ trụ có tánh thấy nghe hay biết tự nhiên. Khi Linh giác bị khuấy động liền trở thành Linh Thức. Linh Thức nầy sinh ra thì Tánh thấy nghe hay biết của Linh Thức cũng hiện rõ, trong điện lực hiện ra. Để hiểu thêm về Linh giác vũ trụ một khi đã bị khuấy động, liền tạo ra Linh Thức chớ không phải tạo ra ý thức, linh thức trong điện lực không có ý thức.

Người ta chỉ nghĩ vì sao điện năng lại kỳ diệu đến như thế. Phải nói là vô tận của sự kỳ diệu vì họ không hiểu trong Thể Lực vũ trụ, có Linh giác vũ trụ. Thể Lực vũ trụ bị khai thác, bị khuấy động trở thành điện lực. Thì Linh giác của Thể Lực vũ trụ theo đó biến thành Linh Thức của điện, mà Linh Thức của điện chính là Linh giác vũ trụ hiện ra. Linh giác vũ trụ đã biến thành Linh Thức của điện. Đức tính thấy nghe hay biết của Linh Thức Điện Lực cũng không có gì thay đổi so với tính thấy nghe hay biết của Linh giác của Thể Lực, vì cái tính thấy nghe hay biết liên tục không đứt đoạn hay gián đoạn, cái thấy nghe hay biết triền miên. Vì thể nó sẽ giữ mãi cảnh giới, màu sắc, hình ảnh, khi nó đã tiếp thu sao chép.

Thời nay một số đông người xem ti vi truyền hình, quên lửng hình ảnh sống động như thật hiện ra trong ti vi truyền hình, cứ ngỡ đó là người thật nào hay đâu những hình ảnh sống động đó chỉ là hình ảnh sao chép của Điện mà thôi, như trên đã nói trong Điện có Linh Thức của Điện làm nên sự kỳ diệu đó.

Nói đến cảnh giới trong Linh Thức của Điện thì có 2 phần, Linh Thức vô sắc và Linh Thức hữu sắc. Linh Thức vô sắc là Linh Thức trong sạch. Linh Thức hữu sắc là Linh Thức đã chuyển thành màu sắc, hình ảnh, cảnh quan mà ta đã thường thấy qua màn hình ti vi.

Nhìn Thái Tử đã dùng bốn Đức tính tự nhiên thấy nghe hay biết tạo lập cảnh giới trong tâm thức hiện ra cây sanh Cổ Thụ, nhưng chỉ bốn Đức tính này dù đã liên kết với nhau cũng không thể biến hóa hay sống động như thật được, vì còn thiếu một thức chủ lực chủ chốt nữa, đó là ý thức Thần Hồn của Duy Thức. Trong cảnh giới hình ảnh sống động của Điện chỉ có Linh Thức (sắc – thọ) sắc thức, thọ thức. Còn tưởng thức, hành thức, ý thức chưa có. Hình ảnh trong Điện lực chỉ là hình ảnh sao chép của Linh Thức, sắc thức – thọ thức mà thôi. Chỉ có 2 thức này mà đã làm cho Điện đa năng kỳ bí ảo diệu vô cùng, vì sắc thức – thọ thức, Linh Thức của Điện, còn có nhiều tính khác nữa như tính phân biệt, tính đo lường, v.v... Huống chi Linh Hồn con người, chỉ nói đến mỗi chủng tánh, thì có đủ ngũ thức, Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, thì diệu dụng huyền diệu biết đến dường nào, huống chi là cả một hệ thống chủng tánh Thiện, Ác, Mê, Ngộ trong tâm linh của mỗi con người.

Nhưng xưa nay mấy ai làm chủ được tánh Linh của mình đâu, tâm viên ý mã rong ruổi mãi, lúc này lúc nọ, thọ lãnh biết bao nhiêu là sự khổ. Người Đại giác ngộ luôn luôn làm chủ Chân Tánh của mình để làm nên bao nhiêu việc kỳ diệu khám phá vũ trụ chinh phục vũ trụ giang san máy móc mà Tổ Tiên đã tạo ra. Thái Tử tập Thần Thông biến hóa càng lúc càng cao cường, biến hóa ra núi ra sông hồ ao biển, để đạt đến đỉnh của Thần Thông biến hóa, Thái Tử chuyển sang giai đoạn hô phong hoán vũ, chuyển mình thành giông Bão mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm.

Một hôm trên đỉnh dãy núi cao Trời đang vào hạ, bỗng dưng khí Trời lạnh lẽo mây đen xuất hiện phủ kín đầy Trời, cuồng phong mỗi lúc mỗi thêm dữ dội, chuyện lạ ấy là do Thái Tử tạo ra. Hôm ấy Thái Tử tưởng thân hình to lớn đến vài chục dặm và cao lên tận các tầng mây, tay tả ấn cung tốn, tay hữu ấn cung đoài. Thái Tử hớp lấy Chân khí vũ trụ, nuốt chửng vô số tầng mây, Thái Tử liền tưởng ra một cơn mưa bão, tức thời thân hình to lớn của Thái Tử biến mất thay vào đó là cơn mưa bão lụt lội khủng khiếp sấm sét ầm ầm rung chuyển cả không gian trong phạm vi hơn trăm dặm, cát bay đá chạy, cây cối ngã đổ, núi đồi sụp lở, sức tàn phá của cơn bão lụt khủng khiếp, Chim muôn vạn Thú chết vô số kể, cơn mưa bão kéo dài đến mấy giờ liền sau đó thì tạnh hẳn. Thái Tử đã trở lại nguyên hình.

Thái Tử nhìn thấy cảnh tượng đổ nát xơ xác chết chóc thời giật mình hối hận, đã gây tổn hại đến cỏ cây, sinh linh vạn vật Thái Tử còn nhìn thấy, nước nguồn đổ về khủng khiếp tràn ngập khắp nơi làm thiệt hại con người. Thái Tử nghĩ quả thật Thủy, Hỏa, Phong là tam tai của thế gian. Từ đó Thái Tử không tu luyện pháp thuật biến hóa ra Thủy Hỏa Phong nữa sợ gây tổn hại cho sinh linh muôn loài vạn vật.

Thái Tử giờ đây có thể nói đã trở thành ông Tổ của pháp thuật Thần Thông. Ánh sáng tâm Linh đã xuất hiện, như báo hiệu Mặt Trời trí huệ sắp ra đời. Bọn Ma Vương cùng Đại Quỉ vô cùng khiếp sợ trí huệ Thần Thông của Thái Tử. Chúng rủ nhau lùi dần vào bóng u minh, vì chúng biết Mặt Trời trí huệ sắp xuất hiện.

* * *

Hết phần 1 chương 10 mời xem tiếp phần 2 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Chỉ có Quốc Tổ mới có sức thần thông trí huệ vô biên phá vỡ Vô Minh nhanh chóng tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, nhưng rất tiếc vì thời đó không có giấy bút cũng như chữ viết để lưu chép kinh văn chỉ truyền miệng cho nhau, dẫn đến tam sao thất bổn dần dần Văn Hóa Cội Nguồn biến mất không còn. Thế mà vẫn kéo dài độc lập 2701 năm, huống chi có kinh văn thì coi như độc lập muôn năm cuộc sống không khác chi trên các cõi trời. Thiên đàng cực lạc trần gian.

Văn Hóa ra đi giờ trở lại

Việt Nam vận hội khắp bốn phương

Địa Long Thánh Địa bừng tỏa sáng

Lạc Hồng Con Cháu dậy mùa xuân.

* * *
 
CHƯƠNG 10

PHẦN 2

NHỮNG PHÚT SUY TƯ


Thái Tử nghỉ pháp thuật Thần Thông chỉ là cảnh giới của Duy Thức biến hóa mà thôi, muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, phải làm chủ Duy Thức làm chủ Chân Tánh vào cảnh giới tự nhiên Chánh Định, tiến tới đỉnh cao nhất của sự giác ngộ, hội nhập bản thể Cội Nguồn, Thức Tánh trở về Chân Tánh, bọt nước trở về bản thể nước, đi thẳng vào cảnh giới vô thức, vô ý, vô trí thấy nghe hay biết tự nhiên không một niệm khởi tưởng vào cảnh giới tự nhiên Chánh giác.

Thái Tử bay về thành Giang Nam nước Xích Quỷ khu vườn cấm, tiếp tục hành trình tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, pháp tạng vũ trụ, cũng như lời dạy của Đức Cha Trời, truyền bá để lại thế gian. Thái Tử đã vượt qua cảnh giới Thiên Tiên, Địa Tiên nhưng Văn Hóa Cội Nguồn còn quá xa. Vì cảnh giới Thiên Tiên chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong cảnh giới Duy Thức, huống chi là Địa Tiên.

Địa Tiên chú trọng về luyện khí, Thiên Tiên chú trọng về luyện pháp. Sau 2 giờ vận hành Chân khí, tiếp đến là hít thở bằng các lỗ chân lông, sau đó liền đi vào cảnh giới nhập định, từ đây về sau Thái Tử không xuất hồn ra khỏi thể xác Tiểu Thiên vũ trụ nữa, vì thể xác con người Tiểu Thiên vũ trụ rất quan trọng cho cuộc hội nhập trở về Cội Nguồn. Thái Tử nhập định xong các giác quan đều hướng ngược vào trong.

Có nghĩa là thấy nghe hay biết trong nội thể tiến lần lên thấy nghe hay biết trong nội tâm. Ví dụ: Tai không nghe bên ngoài nữa mà nghe ngược trở vào nội thể nghe tim đập nghe máu huyết lưu thông, sau đó nghe về tánh nghe của mình, sáu Căn vốn thanh tịnh, nên sáu Căn Thức cũng mau chóng đi vào vô thức vào cảnh giới đại định, lục thông liền khai mở tối đa.

Thái Tử liền thấy nhân loại trần gian thật đáng thương, sống mãi trong cảnh sanh già bệnh chết, sum họp để rồi chia ly, vui thì ít khổ thời nhiều, luân hồi sanh tử, khổ này chưa dứt khổ khác đã chồng lên, khổ về lạc hậu, đói nghèo, khổ về chiến tranh áp bức, khổ về tù đày nô lệ hành hạ dã man, khổ mất tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, đã bị kẻ quyền thế cướp đi, khi nào cần chúng lại ban cho một ít. Đây Quyền tự do, Quyền sống, Quyền được sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc của các nô lệ ngươi đây. Nhưng thật ra chúng có bao giờ trao trả những Quyền mà Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi người đâu, toàn là lời bịp bợm giả dối.

Nhìn thấy cảnh con người làm khổ con người, không những khổ ở thế gian còn khổ sang Địa Ngục, cái khổ triền miên bám lấy con người, bám lấy hồn người, hồn sa địa ngục thì quyền thế còn đâu do ác nghiệp dấy khởi sa đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh Có cảm có ứng, ác gieo ác gặt nhìn cảnh Địa Ngục Linh Hồn bị lửa đốt, Kiếm đâm, chết ở ngục này sanh qua ngục khác, cảnh khổ không sao diễn tả cho hết được. Nhìn cảnh Linh Hồn bị róc thịt, lột da, nấu dầu, moi tim, rút gân vô cùng thê thảm, những cực hình dã man đau đớn nhất được đem ra sử dụng. Nghỉ mà đau lòng ai cứu lấy họ đây, lớp người trước rơi vào Địa Ngục, lớp người sau tiếp tục sa chân.

Còn cái khổ nào hơn khi đã sa đọa vào kiếp Quỉ, có ai muốn mình trở nên xấu xí như thế, đầu chẽ, mắt lồi, miệng thối, người hôi, những răng nanh trông thật gớm ghiếc, mình đầy gai nhọn, d.a thịt xù xì còn hơn da cóc thấy mà phát tởm, phải sống nơi dơ bẩn, như Quỉ Lông Mao, chuyên ăn phân người thây thúi, sống trong cảnh giới tanh hôi, lủi thủi nơi hoang vắng bóng đêm, cô đơn tẻ nhạt hết trăm năm này sang trăm năm khác, cái khổ nào hơn đã sanh vào loài Quỉ.

Loài ngạ Quỉ còn khốn khổ hơn nữa, đầu to như núi cổ nhỏ như kim, nuốt rất khó đói khát triền miên, đói đến nổi mũi phun ra khói, khát đến nổi miệng tuôn ra lửa ôi còn cái khổ nào hơn. Những thống khổ này không ai tạo ra cho mình cả, mà do chính mình tạo ra, gieo nghiệp ác kết quả phải thọ lãnh quả báo như thế, cũng chỉ vì Lạc Đạo sai đường, không làm chủ được tánh Linh của mình, chạy theo dục vọng đê hèn luôn luôn khởi tâm dấy nghiệp ác, lặn hụp mãi trong biển khổ trầm luân, hết kiếp người rồi tới kiếp Địa Ngục, hết kiếp Địa Ngục lại sanh kiếp Quỉ, hết kiếp Quỉ lại đến kiếp súc sanh, cứ thế loanh quanh lòng vòng khốn khổ mãi.

Thái Tử dùng huệ nhãn soi rọi chốn nhân gian, thấy Thiên Đàng không có đường lên còn Địa Ngục thì muôn vạn lối để đi xuống. Ta xem chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, đưa Thiên Hạ đến con đường hạnh phúc, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để xưng hùng xưng bá mà thôi. Cứu Thiên Hạ thoát khổ chỉ có con người mở rộng tấm lòng từ bi. Chiến thắng dục vọng đê hèn, chiến thắng tội lỗi, làm chủ Linh Hồn, làm chủ Chân Tánh. Đem ánh sáng Cội Nguồn đến với Thiên Hạ, giải thoát Linh Hồn về Thiên giới, khỏi phải luân hồi Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Kiếp làm Súc Sanh nào có vui gì như đầu thai làm Heo, Gà, Trâu, Bò, Dê, Ngựa, Chó, Mèo, v.v... Kiếp bị người xẻ thịt nấu nhừ rán mỡ, nếu sống nơi hoang dã cũng chỉ làm mồi cho Sói, Hổ, Báo mà thôi. Sự vay trả, trả vay không dứt, may nhờ chút phước thiện, mới sanh được làm người. Linh Hồn chuyển kiếp sanh ra làm người rất khó, đã được sanh ra làm người, may mắn không tật nguyền khỏe mạnh, lại có chút trí huệ mà bỏ lỡ cuộc hướng lành, thì uổng lắm thay. Một phen mất thân người muôn kiếp khó trở lại.

Thái Tử là nhà khoa học Tâm Linh, thấu rõ mọi ngõ ngách huyền bí của Tâm Linh, trở thành nhà tu Thiền nhập Định cừ khôi, không dính mắc hay cảm xúc trước một hoàn cảnh, dù thuận hay nghịch, dù khổ hay vui đang xảy ra. Lúc nào cũng tự tại an nhiên, không khởi tưởng phân biệt chấp trước, luôn ở vào phương tiện khách quan ngoài cuộc. Vì không khởi tưởng phân biệt chấp trước nên lục thông càng lúc càng nhiệm mầu, huệ quang càng lúc càng sáng tỏ. Có thể nói Thái Tử đã đạt đến cảnh giới của bậc Tổ Thiền. Thấy như không thấy, nghe như không nghe, luôn luôn làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết, không khởi tưởng phân biệt Chánh Định. Lái con thuyền Tâm Linh mỗi lúc mỗi tiến sâu về Cội Nguồn Mật Tạng vũ trụ. Thái Tử nhìn thấy Thiên Đàng, nhìn thấy Địa Ngục, hai cảnh giới trái ngược nhau. Một cảnh giới Cực Lạc, một cảnh giới cực khổ nhưng Thái Tử không lộ cảm xúc nào cả Cho dù đó là Ma Vương, Đại Quỉ tới làm hại Thái Tử. Không phải Thái Tử là nhà vô cảm mà là nhà khoa học tâm Linh, thấu hiểu Luật Thiền Định. Chỉ cần 1 niệm khởi của tâm Linh thời huệ quang giảm sút ngay không thể nào tiến sâu vào cảnh giới Mật Tạng vũ trụ được nữa. Vì Ma chướng đã khởi lên ngăn chặn.

* * *

Hết phần 2 chương 10 mời xem tiếp phần 3 chương 10 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

* * *



CHƯƠNG 10

PHẦN 3

NIỀM TIN ĐỨC TIN LÀ NỀN TẢNG DẪN ĐẾN MỌI SỰ THÀNH CÔNG


Con đường tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn là một việc làm vô cùng khó khăn, phải theo phương pháp độc nhất vô nhị. Biết cách làm phát sanh ngọn lửa ý thức hiểu biết cao phát huệ rồi tiến tới Đại huệ Chánh Đẳng Chánh giác. Điều trước hết là đầy đủ niềm tin Đức tin. Tin mình làm được, tin sự quyết đoán của mình, ý mong cầu giải thoát, giải thoát cho mình, giải thoát cho người, giải thoát cho toàn nhân loại.

Thái Tử sanh ra và lớn lên như bao người phàm tục, nhưng khác hơn phàm tục là lòng thương yêu nhân loại vô bờ bến, lại thêm đầy đủ Niềm tin, Đức tin và tin vào sự quyết đoán của mình. Ý tưởng lý tưởng đã vượt lên trên nhân loại phàm phu, chưa tu mà đã trở thành người Đại Thiện, chưa học Đạo mà giới luật tinh nghiêm. Tấm lòng bao la rộng mở thương yêu nhân loại, như thương yêu chính bản thân mình.

Thái Tử đã hội tụ đủ yếu tố, bản thân, gia đình, xã hội, Đức tin, Chân Thiện và giới Luật tinh nghiêm, nên Thái Tử đã mau chóng trở thành Đức Chí Tôn Quốc Tổ vừa là Đấng cứu thế vừa là nhà lãnh tụ xã hội. Thiên tài cả Đời lẫn Đạo có một không hai trong nhân loại con người. May mắn thay tốt đẹp thay cho con cháu Văn Lang ngày xưa, cho con cháu Việt Nam ngày nay. Vì vậy con cháu Việt Nam muốn đến với Tổ Tiên Cội Nguồn. Trước hết phải đầy đủ Đức tin, niềm tin và tự tin mình sẽ làm được những gì mà ông Cha ta đã làm. Đi theo Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng thì rất dễ, vì Quốc Tổ đã xây cầu đắp lộ cho ta đi. Chúng ta chỉ cần nỗ lực cần mẫn làm theo, học theo lời dạy trong Kinh, làm phát sanh ngọn lửa trí huệ, để rồi hội nhập vào Cội Nguồn làm chủ lấy mình, làm chủ xã hội, tiến xa hơn nữa là làm chủ vũ trụ giang san Tổ Tiên lập lên cho chúng ta.

Thái Tử là Đấng Chí Tôn đầu thai xuống thế. Đức Chí Tôn là con cả của Đức Cha Trời. Theo lịnh của Đức Cha Trời xuống chốn nhân gian sanh vào bụng mẹ, nên đã quên kiếp trước của mình. Không biết mình là ai, tất cả phải làm lại từ đầu, mở đường khai lộ cho chúng ta đi. Nhưng việc mở đường khai lộ gian nan và đầy dẫy khó khăn mà Thái Tử từng bước từng bước hình thành xây dựng lên con đường đó. Mỗi chặng đường là mỗi Tinh Hoa Đạo học xã hội quí hiếm vô cùng. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là Đạo pháp Chí Tôn vô thượng. Xưa kia thời Thiên Ấn, chỉ truyền cho Quốc Vương kế vị trị quốc an dân. Nhưng thời nay đã khác Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng là của toàn nhân loại, vì tất cả nhân loại đều là con cháu nhà Trời. Thời nay là thời có cả Thiên Ấn lẫn Thiên Bút, giai đoạn cực kỳ quan trọng cho sự tiến hóa Linh Hồn đỉnh cao của nhân loại con người ở vào giai đoạn gần cuối tiểu kiếp thứ 9.

* * *

Hết phần 3 chương 10 mời xem tiếp phần 4 chương 10 Long Hoa Mật Tạng. Những gì mà thế hệ nhân loại thừa kế thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Báu vật Long Hoa Mật Tạng, kho tàng tri kiến vũ trụ, những tinh hoa Mật Tạng vi diệu thâm thâm không thể luận bàn cho hết được những người may mắn sự thừa kế và sở hữu bộ kinh nầy. Thời coi như Cha Trời đã chọn lựa vào ngôi Thế Tôn, Chí Tôn. Chuyển đại pháp luân thay Cha Trời cứu nhân độ thế. Đưa nhân loại về trời vào ngôi nhà chung vũ trụ, sống mãi trên Thiên Đàng Cực Lạc.

Chỉ nghe một chữ Mật Kinh

Thăng hoa cuộc sống bước chân về trời

Đời đời kiếp kiếp đời đời

Hết sa địa ngục sang giàu triền miên

Huống chi đọc tụng chép in

Ra thân truyền bá cứu dân độ đời

Cháu con danh rạng sáng ngời

Ông Bà, Cha Mẹ vãn hồi siêu thăng

Chỉ cần tin nhớ một câu

Tai qua nạn khỏi biết bao phước lành

Huống chi đọc tụng thuộc lòng

Phật, Tiên, Thánh, Chúa, Tổ, Thần khó chi.

* * *



CHƯƠNG 10

PHẦN 4

GIAI ĐOẠN QUAN TRỌNG HỘI NHẬP CỘI NGUỒN LÊN NGÔI CHÍ TÔN ĐẤNG CỨU THẾ RA ĐỜI


Suốt một thời gian nhập định, Thái Tử thấy rõ Tam Thiên Đại Thiên thế giới, cũng như 18 tầng Địa Ngục, như thấy rõ trong lòng bàn tay. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng vẫn chưa hiện ra. Thái Tử còn phải đi thêm một đoạn đường nữa.

Để chuẩn bị cho cuộc hành trình hội nhập Cội Nguồn, Thái Tử đã trở lại ăn uống bình thường, làm tăng thêm thể chất cho xác thân phàm tục. Thật đáng sợ mỗi khi Thái Tử tập luyện thập bát môn võ thuật, chỉ có đôi bàn tay không, đôi lúc lấy cành cây thay cho Kiếm, thế mà khi Thái Tử vung lên kình lực phát ra từ cành cây làm rung chuyển khu rừng cấm, phát khiếp cả người, khiếp đảm cả yêu tinh ma quỉ, ý tới đâu thì thần Kiếm liền tới đó. Thần, Thánh cũng không chống đỡ nổi. Thái Tử từ khi vào Thiền phòng đến nay gần 6 năm, những gì Thái Tử đã đạt. Đó chỉ mới là hành trang chuẩn bị cho cuộc tiến sâu về Cội Nguồn.

Có thể nói Thái Tử giờ đây khác hẳn người thường tục. Vì có nhị xác thân ẩn tàng trong xác Thân phàm tục, tuy hai mà một, tuy một mà hai, nhị xác thân biến thì xác thân phàm tục cũng biến hóa theo. Một hôm Thái Tử tu Thiền luyện khí xong, khởi tưởng ra cảnh giới của Nước. Tức thời thân hình phàm tục của Thái Tử biến mất, thay vào đó là cảnh giới của Nước đã hiện ra trong Thiền phòng.

Vì nhớ thương con Thần Long Nữ Thứ phi Nương Nương Mẫu Hậu Mẹ của Thái Tử, không kiềm chế được lòng thương, liền hỏi Xảo Nữ Thị Tỳ Cúc Phương rằng:

Cúc Phương con có gặp Thái Tử không?

Cúc Phương nghe hỏi liền thưa:

Thưa Mẫu Hoàng con chưa từng gặp Thái Tử lần nào nhưng hôm nay con phá lệ quyết tâm để gặp.

Vương phi nghe Cúc Phương nói thế thì mừng rỡ vô cùng, chuyện này không thể cho Kinh Dương Vương nghe được, vì Kinh Dương Vương mà nghe được sẽ quở phạt nặng, có khi còn mất cả mạng, nên bà nói:

Nếu Quốc Vương phát hiện quở phạt thì nói là ta biểu làm như thế. Nếu Thái Tử có quở phạt con cũng nói là ta biểu con làm như vậy.

Cúc Phương nghe Thần Long Nữ Vương Phi Nương Nương nói như vậy nên lấy làm an tâm quyết gặp Thái Tử cho bằng được.

Lòng thôi thúc lại thêm tánh tò mò muốn tìm hiểu Thái Tử dạo này ra sao, tu luyện đạt tới cảnh giới nào, Cúc Phương rất thương Vương phi Nương Nương, coi Vương Phi Nương Nương còn hơn mẹ đẻ của mình nên đành đánh liều một phen, gặp mặt Thái Tử một lần dù chết cũng được.

Cúc Phương nghĩ:

Người gì mà 7 ngày mới ăn uống một lần, có lẽ Thái Tử đã ốm đến nổi xương bọc lấy da, có lẽ giờ đây Thái Tử trông xấu xí lắm, đi đứng hết nổi nữa là khác.

Cúc Phương càng nghĩ càng thở dài:

Đã là Thái Tử thời tiền hô hậu ủng cần gì tu luyện mệt nhọc thế này. Ôi quả là chuyện lạ đời.

Vì muốn gặp mặt Thái Tử nên Cúc Phương tới sớm hơn một ngày không theo thường lệ vào ngày thứ 7 tới sớm hơn một ngày, ngày thứ sáu mà thôi. Vì nghĩ mông lung Cúc Phương đã tới của Thiền phòng lúc nào không hay, Cúc Phương giật mình đứng lại một hồi, nhưng sau đó lên tiếng:

Thưa Thái Tử, Tỳ Nữ cần gặp Thái Tử có chút việc.

Cúc Phương miệng thưa mà tim tưởng chừng như ngừng đập, Cúc Phương thưa đi thưa lại mãi mà Thiền phòng vẫn im phăng phắc, không có một tiếng động, dù cho đó là tiếng động rất nhỏ. Trời không lạnh mà Cúc Phương đã run lập cập.

Cúc Phương nghĩ:

Chuyện gì thế.

Cúc Phương nghĩ:

Hay là …

Cúc Phương không dám nghĩ thêm nữa. Tuy Cúc Phương đang run lập cập nhưng cũng đánh bạo đẩy cửa bước vào, cánh cửa vừa mở. Cúc Phương đã phải hồn xiêu phách lạc. Vì không thấy Thái Tử đâu mà chỉ thấy phòng toàn là Nước nhưng không tuôn chảy ra ngoài. Cúc Phương lấy tay dụi dụi 2 con mắt, cứ tưởng là mình hoa mắt nhưng không phải đây là sự thật. Cúc Phương liền bước vội vào phòng không thấy ngộp gì cả, lại thêm quần áo vẫn ráo khô. Cúc Phương sợ quá bước vội ra ngoài mặt tái mét không còn chút máu, quên cả đóng cửa.

Đây nói về Mẫu Hậu Mẹ Thái Tử thấy Cúc Phương về mặt mày có vẻ khác lạ, liền hỏi:

Đã gặp Thái Tử chưa?

Cúc Phương lễ phép thưa:

Thưa Vương Phi Tỳ Nữ chưa được gặp, vì Thái Tử bận việc nên không cho gặp.

Nhìn vẽ thất vọng của Vương Phi Nương Nương. Cúc Phương nghĩ tình mẫu tử thiêng liêng có tình nào hơn tình mẹ thương con. Cúc Phương biết ở lại lâu sẽ bị bại lộ. những nghi vấn bí mật mà mình đã thấy, liền xin phép rút lui.

Ngày thứ 7 lại đến Cúc Phương cố nén cơn sợ hãi đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, đặt vào phòng ăn, rồi ra phòng khách chờ đợi. Đây là việc làm thường xuyên gần 6 năm nay của Cúc Phương nhưng lần này khác hẳn, Cúc Phương hồi hộp vô cùng, đã đến giờ thu dọn. Cúc Phương trở lại phòng ăn với nỗi kinh ngạc, ta có hoa mắt không vì đồ ăn thức uống đã hết sạch. Đây là điều Cúc Phương chưa từng thấy, mới hôm qua ta đã đến đây, tìm kiếm Thái Tử không gặp, lại gặp chuyện kỳ quái nơi Thiền phòng Thái Tử. Hay là hôm qua Thái Tử dạo chơi khu rừng cấm. Có gì mà dạo chứ, khu rừng cấm gần 6 năm nay không người chăm sóc hoang vu sầm uất, phong cảnh đâu còn xinh đẹp như xưa, có lẽ ta đa nghi nghĩ bậy mà thôi. Thái Tử vẫn bình an không có điều gì nhưng việc ta thấy Nước Thiền phòng Thái Tử hết sức Ma quái, việc đó thời sao đây? Hay là Thái Tử đã trở thành. Cúc Phương nghĩ đến đây thời sợ hại tái mét cả mặt mày.

Một tuần nữa lại đến, Cúc Phương vẫn làm cái việc mà mình thường làm, chờ đến giờ thu dọn đĩa bát. Cúc Phương bước vào phòng ăn nhìn thấy đồ ăn thức uống vẫn còn nguyên.

Cúc Phương nghĩ: Có lẽ Thái Tử đã quên mất giờ ăn. Thấy lạ Cúc Phương bằng đánh bạo tới Thiền phòng lên tiếng gọi Thái Tử nhưng chẳng nghe Thái Tử trả lời mà chỉ nghe như là Thái Tử đang ngủ. Cúc Phương hé cửa nhìn vào suýt nữa thì chết ngất, vì Cúc Phương thấy một con Rồng to lớn khoanh tròn đang ngủ. Cúc Phương như muốn quỵ luôn tại chỗ, quên cả dọn đồ ăn thức uống, ba chân bốn cẳng lên xe ngựa trở về cung rồi sanh bệnh, nằm liệt gi.ường mặt mày tái xanh tái mét.

Vương Phi hỏi gì Cúc Phương cũng lắc đầu, cùng lắm là nói Tỳ Nữ không biết gì hết. Thấy chuyện lạ Vương Phi cho mời nội y đến, vị nội y giỏi nhất đương triều. Nội y xem bệnh xong nói:

Thưa Vương Phi hầu nữ Cúc Phương không có bệnh chi cả, chỉ vì quá sợ hãi sanh bệnh mà thôi.

Nội y cho mấy liều thuốc dưỡng thần, sau mấy ngày dưỡng bệnh Cúc Phương dần dần khỏi hẳn. Suy nghĩ ta chưa một lần nhìn thấy Rồng, chỉ nghe kể mà thôi, nay ta đã thấy được Rồng, ắt sẽ có điềm lành đến với ta. Cúc Phương nghĩ tới đó liền mạnh hẳn không còn bệnh hoạn gì cả, mặt mày sáng sủa tươi lên phơi phới. Cúc Phương nghĩ Thái Tử xưa nay ở khu vườn cấm làm bạn với Rồng. Cúc Phương nhớ lại nghe Vương Phi thường kể gần đây ta nhìn thấy hào quang tỏa sáng nơi khu rừng cấm. Kinh Dương Vương cũng thấy như vậy. Cúc Phương bừng sáng trí lên, hay là Thái Tử chứng quả Đắc Đạo rồi, Cúc Phương nghĩ có thể lắm chứ.

Nói về Kinh Dương Vương đêm đêm nhìn về khu vườn cấm thấy hào quang xuất hiện càng lúc càng sáng, càng rực rỡ, thì biết con mình sắp tìm ra con đường cứu thế. Ban đêm nhìn thấy hào quang, ban ngày nhìn thấy mây ngũ sắc xuất hiện càng lúc càng nhiều. Kinh Dương Vương đang ngắm nhìn mây ngũ sắc, thì nghe tiếng chân người đi đến. Kinh Dương Vương quay đầu nhìn lại thì ra đó là tiếng chân của Vương Phi Nương Nương cùng Cúc Phương. Không hiểu vì sao hôm nay Vương Phi Nương Nương nét mặt rực rỡ như mùa xuân, dưới ánh ban mai, cả Cúc Phương cũng thế. Kinh Dương Vương nhìn 2 người nói có lẽ Đông đã qua Xuân lại đến nên Vương Phi đã hết u sầu.

Vương Phi Nương Nương nói: Quốc Vương bệ hạ có khác gì tôi đâu, không bao lâu nữa ta sẽ gặp lại con. Kinh Dương Vương là bậc Chân Vương Thánh Đế Tâm Linh sáng suốt minh mẫn vô cùng. Nghe Vương Phi Nương Nương nói thế liền gật đầu nói rằng: Đúng thế Trẩm cũng nhận định nói như vậy. Văn Hóa Cội Nguồn nhất định ra đời, ta là Quốc Vương chân chính cai trị vì đất nước, ta muốn được tai nghe mắt thấy một nền Quốc Đạo đưa đất nước lên tầm cao mới ngang tầm xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Dù có chết cũng lấy làm thỏa nguyện, Kinh Dương Vương, Thần Long Mẫu Vương Phi Nương Nương hai người như trẻ lại. Cảnh tương lai đã hiện ra. Cảm ơn Trời Đất đã ban cho đất nước Xích Quỷ Đấng con Trời làm rạng rỡ non sông Tổ Quốc.

Nói về Cúc Phương bớt sợ hãi khi nhìn thấy bao chuyện lạ nhưng giờ đây chuyển sợ thành vui. Bằng đem chuyện thấy nghe nơi Thái Tử ở kể lại cho Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương nghe xong 2 người lấy làm kinh ngạc lẫn sửng sốt.

Hai người không hẹn nhau đồng nói:

Con ta chứng quả Đắc Đạo rồi, Đắc Đạo thật rồi, Thành Công thật rồi.

Kinh Dương Vương nói với Cúc Phương:

Những gì ngươi thấy là do pháp thuật Thần Thông biến hóa của Thái Tử mà ra.

Kinh Dương Vương dặn dò Cúc Phương:

Ngươi không nên kể chuyện này cho ai nghe.

Lần này đến khu rừng cấm đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, Cúc Phương nghĩ Thái Tử giờ đây có thể thấy trước biết trước mọi việc, mỗi hành động bước chân của ta. Sự suy nghĩ của ta Thái Tử đều thấy rõ cả.

Cúc Phương vừa xuống xe ngựa cách đó hàng vài trăm mét, liền nghe tiếng nói như tiếng chuông ngân vọng ra:

Cúc Phương ngươi đừng sợ, Cha ta nói đúng đấy những gì ngươi nhìn thấy là do ta biến hóa mà ra thôi.

Cúc Phương nghe xong lời Thái Tử liền ớn lạnh nổi da gà. Vì đã minh chứng suy nghĩ của mình là đúng, cuộc nói chuyện cách xa hàng 6 – 7 dặm mà Thái Tử cũng nghe được.

Cúc Phương lại nghe Thái Tử nói tiếp:

Những gì ngươi đối với ta, công lao quả thật to lớn. Từ nay ngày nào ngươi cũng đem đồ ăn thức uống đến cho ta vào lúc giữa trưa đúng Ngọ.

Cũng như mọi khi sau giờ Ngọ, Cúc Phương vào phòng ăn thu dọn bát đĩa trở về cung thành. Đem việc Thái Tử căn dặn nói lại cho Quốc Vương cùng Vương Phi nghe.

Đây nói về nước Xích Quỷ luôn luôn được Trời ưu đãi, mưa thuận gió hòa, dân chúng luôn luôn được mùa trúng lớn, cảnh thái bình an lạc khắp nơi nơi. Khi ấy xa gần nước Xích Quỷ có nhiều Bộ Tộc nổi lên rất hùng mạnh, nhất là bên kia phía bờ Bắc. Con cháu của Bàng Nhân Hoàng Đế có ý thôn tính nước Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy làm lo lắng cho cuộc chiến tranh chống ngoại xâm này, tất cả đều trông chờ vào Thái Tử vì Kinh Dương Vương đã về già. Nay nghe Thái Tử thay đổi sự ăn uống, ngày ăn một bữa, trước đây thì một tuần chỉ ăn có một lần. Nhất là Mẹ Thái Tử hết sức vui mừng nói phải ăn uống cho nhiều mới có đủ sức để mà tu luyện. Vì muốn cho Thái Tử có da có thịt, bằng hối thúc Kinh Dương Vương cho người kiếm những đồ ăn thức uống giàu chất bổ dưỡng.

Cho tới một hôm Kinh Dương Vương, liền cho người vắt sữa Bò với những con mập nhất trong đàn. Những con Bò sữa này với chế độ ăn uống đặc biệt, nuôi chúng hết sức công phu. Cỏ non, mật ong và những bông lúa đã ngậm sữa. Sữa được vắt từ những con Bò thật khỏe mạnh đem nấu với gạo nếp thơm, pha nước Cốt Linh Chi Nhân Sâm nghìn năm được sắc lọc từ trước nấu thành một bát cháo đặc biệt dành riêng cho Thái Tử.

Nhìn bát cháo nghi ngút hương thơm, Thái Tử đã hiểu đây là bát cháo tốn nhiều công phu tâm huyết. Có lẽ đây là bát cháo quyết định sự sống còn hay tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Đạo vũ trụ. Quả thật không sai sau khi ăn xong bát cháo, thì toàn thân lừng bừng khí lực cơ thể nhẹ bổng khác thường, bộ máy sống thể xác Tiểu Thiên vũ trụ đã phát huy thần lực đến cực điểm. Không thể để bỏ qua cơ hội này, liền đằng vân giá vũ bay lên không trung nhắm dãy núi cao xa tít bay thẳng tới.

Nói về Cúc Phương ngồi chờ ngoài phòng khách cách đó khoảng chừng 50 mét, nghĩ vẩn nghĩ vơ, chợt thấy Thái Tử từ trong phòng ăn bước ra. Cúc Phương tim đập loạn lên vì đây là lần đầu tiên Cúc Phương nhìn thấy Thái Tử, chỉ còn 50 ngày nữa là 6 năm, không thể tin được, Thái Tử giờ đây trở thành thanh niên khỏe mạnh, vóc người rắn chắc cao lớn đẹp như Thiên Thần giáng thể. Cúc Phương sít chút nữa thời kêu lên. Thái Tử không để ý gì đến Cúc Phương nhảy lên không trung biến mất. Cúc Phương ngơ ngác nhìn theo, tưởng chừng như trải qua một giấc mơ, đã qua quá giờ Ngọ sang giờ Mùi mà Cúc Phương vẫn còn ngơ ngác. Một cơn gió mạnh vụt qua làm Cúc Phương tỉnh giấc mơ trở về thực tại vào thu dọn bát đĩa trở về cung.

Nơi Hoàng Cung Quốc Vương Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Nương Nương chăm chỉ lắng nghe Cúc Phương kể lại những gì mà Cúc Phương đã thấy. Kinh Dương Vương nghe xong ra nhiều suy nghĩ. Còn Vương Phi Nương Nương Thần Long Mẫu nói: Không lẽ con nó bay về Trời. Kinh Dương Vương làm thinh không nói gì cả.

Đây nói về Thái Tử bay đến đỉnh cao Thượng Nguồn của các con sông lớn, ngồi dưới Cội Cây Sanh Hình Rồng. Ngồi xếp bằng tam Thiền nhập Định. Phát Đại Nguyện rằng:

*- Nguyện thứ nhất:
Khi ta thành Đạo thời Đạo pháp của trời sẽ tuôn chảy tưới nhuần các Châu Lục. Làm tươi trẻ Linh Hồn nhân loại, trí huệ đều được khai mở, thấu suốt Cội Nguồn vào pháp Đại Đồng Bình Đẳng tự chủ Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc.

*- Nguyện thứ hai: Khi ta thành Đạo nước pháp Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý của Trời sẽ biến thành Nước pháp Cam Lộ, cứu khổ cứu nạn làm vơi đi bao nỗi đau khổ. Khổ sinh, khổ tử, khổ già, khổ bệnh, khổ chia ly, khổ đói nghèo lạc hậu, khổ nỗi hàm oan, khổ áp bức, khổ nghịch cảnh, khổ tù đày, khổ Địa Ngục, khổ dốt dại ngu si. Biến tất cả những thống khổ ấy trở thành an vui an lạc cuộc đời.

*- Nguyện thứ ba: Khi ta thành Đạo, thời Đạo pháp của Trời Linh ứng vào hàng bật nhất cầu chi đặng nấy. Chỉ cần việc ấy không trái lại lời dạy của Đức Cha Trời Chân Lý, Công Lý, Đạo Lý vũ trụ.

*- Nguyện thứ tư: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời biến thành Chủ Nghĩa Đại Đồng, không phân biệt màu da chủng tộc. Các Đảng phái, tôn giáo, các tầng lớp xã hội, giàu nghèo, sang hèn, Ác Thiện, hể có cảm thì có ứng, có công thì có quả. Phàm Thánh cũng như nhau.

*- Nguyện thứ năm: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời thành Đạo Đại Đồng Bình Đẳng, Luật là Thầy, Đạo là Cha, Công Lý Hiến Pháp là Vua. Phàm, Thánh toàn nhân loại, đều đầy đủ các Quyền mà Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu đã ban tặng cho mỗi con người. Như Quyền tự do, Quyền Ngôn Luận, Quyền bình đẳng, Quyền sống, Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền quyết định vận mệnh của mình. Nhất là Quyền được Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý cho phép. Còn những Quyền, Hiến pháp, Luật pháp, Đạo pháp, Công Lý không cho phép, đó không gọi là Quyền mà là đi ngược lại lời dạy của Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu.

*- Nguyện thứ sáu: Khi ta thành Đạo, thời Đạo Trời sẽ biến thành những món ăn tinh thần, chuyển hóa Căn Thân Huệ Mạng có công năng giải trừ vô lượng tội ác. Không còn sa đọa Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Sanh về Thiên giới, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, Lầu Đài Cung Điện đều theo ý muốn hiện ra. Sống mãi không chết không già không bệnh, không tử.

*- Nguyện thứ bảy: Khi ta thành Đạo, thì Đạo Trời trôi chảy không ngừng hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác. Lưu chuyển khắp ta bà thế giới, khắp năm châu bốn biển, khắp hư không vũ trụ. Làm lợi ích mãi cho nhân loại con người.

*- Nguyện thứ tám: Khi ta thành Đạo, thì Đạo trời sẽ trở thành Quốc Đạo Chính Nghĩa của mỗi dân tộc, mỗi chủng tộc, mỗi màu da. Từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng. Đời Đạo là một dung hòa cuộc sống, Đời vì Đạo, Đạo là Đời tuy hai mà một, tuy một mà hai. Như Lửa ánh sáng của Lửa.

*- Nguyện thứ chín: Khi ta thành Đạo, thì Đạo Trời biến thành vô lượng quang ánh sáng soi đường cho nhân loại thoát khổ. Anh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, ánh sáng vật chất khoa học, vũ trụ, ánh sáng khoa học Tâm Linh Duy Thức chủng tánh, ánh sáng Đại Đồng Bình Đẳng, ánh sáng Chính Nghĩa công bằng văn minh, ánh sáng giải thoát Chánh giác, ánh sáng toàn năng toàn giác và còn vô lượng vô biên ánh sáng không thể tính đếm không thể nghĩ bàn soi đường chỉ lối cho nhân loại con người. Thấu suốt quá khứ tột cùng vị lai.

*- Nguyện thứ mười: Khi ta thành Đạo, thì Đạo Trời trở thành Đại Đạo vũ trụ, Đạo Chung cho toàn nhân loại. Tam giáo Quy nguyên. Ngũ Chi hiệp nhất. Đồng Ngộ Chân Tánh. Đồng Thành Chánh Giác. Thanh tịnh hư không. Đại Đồng Bình Đẳng.

Thái Tử vừa phát nguyện xong, tức thời từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Ba cõi vũ trụ rung mình chấn động dữ dội, bừng sáng lên rực rỡ.

Lúc ấy nơi hư không vũ trụ phát ra tiếng nói khen rằng:

Hi hữu thay, hi hữu thay, hi hữu thay. Cho con lớn của ta, lời nguyện của con sẽ thành hiện thực.

Nói về dưới cùng Địa Ngục, trên khắp các Tầng Trời bỗng nhiên rực rỡ làm kinh động đến chư Thiên, chúng Quỉ Thần. Chư Thiên, Chúng Quỉ Thần tự hỏi với nhau, chuyện gì thế, chuyện gì thế, hào quang chấn động này do đâu mà ra.

Thời giữa hư không bỗng nhiên phát ra tiếng nói:

Điềm lạ này từ chốn nhân gian tạo ra. Thái Tử con Quốc Vương KINH DƯƠNG VƯƠNG.

Chư Thiên và chúng Quỉ Thần lấy làm lạ là ai thế. Thái Tử là ai thế mà có uy lực đến dường này, nghe đồn rằng Đức Chí Tôn đã sanh xuống chốn nhân gian, không lẽ tin đồn này là sự thật. Đức Chí Tôn chuyển đại pháp luân, phá tan vô minh, đẩy lùi Ma tánh, Quỉ Tánh ánh sáng Chánh giác xuất hiện ra đời, Mặt Trời Đại Huệ xuất hiện tỏa sáng. Chư Thiên Quỉ Thần quá đỗi hoan hỉ vui mừng hò reo vui sướng.

Nói về Thái Tử ngồi xếp bằng yên lặng bất động dưới Cội Sanh hình Rồng ánh sáng Chánh giác mỗi lúc một tỏa sáng, vì bản thể Linh giác đang phản bổn hoàn nguyên. Từ bọt Nước tan biến trở về là Nước. Từ thức Tánh trở về Chân Tánh. Tánh thấy nghe hay biết hướng ngược về chính mình, nghe trong tìm thức, thấy trong Linh Hồn. Thấy nghe hay biết ngược về quá khứ, nhờ an trụ Chánh giác làm chủ Chân Tánh. Quá khứ mỗi lúc một hiện rõ ra, thấy rõ mình ở cõi Long Vân trung Thiên giới xuống thế đầu thai. Ánh sáng Chánh giác càng lúc càng sáng soi tận cùng cảnh giới của vô minh.

Lúc bấy giờ bốn phương tám hướng ở dưới đất, bốn phương tám hướng ở trên không, chúng Ma và Quỉ dữ nghĩ rằng. Chúng ta sống chuyên nhờ vào bóng tối, nhờ vào sự mê muội ngu si của Linh Hồn con người, vô minh bảo bọc che chở cho chúng ta. Nay bóng tối vô minh sắp bị phá vỡ, ngu si mê muội, tối tăm, mờ ám trong Linh Hồn con người cũng dần dần tan biến mất. Thì còn gì Vương Quốc của ta. Ngu si, mê muội, tối tăm, mờ ám là Căn Cội của mọi tội lỗi, chính là Thành trì của Ác Ma và Ác Quỉ. Nay chúng thấy ánh sáng Chánh giác chiếu lên công phá thành trì của chúng.

Thành trì của chúng là vô minh che lấp Chân Tánh con người. Một khi ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác chiếu lên vầng thái dương Tâm Linh xuất hiện, phá tan sự ngu si, mê muội, mê chấp biến mất. Thay vào đó là ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Chân Lý, ánh sáng Công Lý, ánh sáng Đạo Đức, thì chúng không còn chỗ để dung thân. Chúng liền cùng nhau kéo đến không cho Thái Tử thành Đạo. Tức thời u minh kéo đến, mây đen mờ mịt, trên không dưới đất, Ác Ma, Ác Quỉ mỗi lúc một đông, chúng thi nhau phù phép, mưa to gió lớn, sấm sét ầm ầm, mỗi lúc một thêm dữ dội. Đá chạy cát bay núi đồi như muốn sụp đổ.

Cùng lúc ấy Long Thần hộ pháp, Ngũ Long xuất hiện. Trấn giữ ngũ phương ứng dụng vào Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Rồng vàng trấn thủ Trung Ương vây quanh bảo bọc Thái Tử. Rồng Đen trấn giữ hướng Bắc. Rồng Đỏ trấn giữ hướng Nam. Rồng Trắng trấn giữ hướng Tây. Rồng Xanh trấn giữ hướng Đông. Thiên Thần trấn giữ trên không. Địa Thần trấn giữ dưới đất. Mặc sức cho Ác Ma, Ác Quỉ công phá suốt 49 ngày đêm. Sấm sét giông bão ngút trời, mưa to gió lớn gào thét khủng khiếp. Thái Tử vẫn bình yên vô sự.

Nói về dân chúng khắp châu lục bị trận đại hồng thủy do Ác Ma, Ác Quỉ gây ra suốt 49 ngày đêm, thiệt hại mùa màng, chết chóc vô số kể, nước Xích Quỷ cũng không tránh khỏi thiệt hại đó, dân chúng khắp châu lục khiếp hoảng. Thành tâm cầu khẩn với Đấng Trời Cao.

Chúng con lạy Đấng Trời Cao. Người cứu giúp chúng con, chúng con đã quá khổ. Khổ đói khổ rét, khổ đau, khổ bệnh, khổ già, khổ chết, khổ chia ly, khổ chiến tranh, khổ tù đày, khổ lao dịch, khổ sai, khổ nỗi oan ức, khổ mất nước nhà tan, ôi biết bao nhiêu là nổi khổ cái khổ này chồng chất lên cái khổ kia. Giờ đây chúng con lại phải hứng chịu bao cái khổ ập đến do mưa bão gây ra. Hỡi trời xanh xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con, xin người cứu lấy chúng con. Lời nguyện cầu nhân loại khắp châu lục vang lên. Tức thời từ trên dãy núi cao thượng nguồn của các con sông lớn chảy về các châu lục. Ba Đạo hào quang rực rỡ phóng lên vũ trụ phát ra tiếng sấm lớn, làm rung chuyển vũ trụ, hiện ra vô số Mặt Trời bóng đêm biến mất. Trời quang mây tạnh, ba Đạo hào quang biến mất vô số Mặt Trời biến theo, Bình Minh tỏa sáng truyền hơi ấm về cho nhân gian mở màng ngày mới.

Thái Tử suốt 49 ngày đêm, làm chủ Chân Tánh, làm chủ thấy nghe hay biết. Thức Tánh trở về Chân Tánh ví như bọt Nước tan biến trở lại là Nước. Duy Thức tánh hội nhập Cội Nguồn, huệ quang Chánh giác càng lúc càng sáng, thành trì Ác Ma, Ác Quỉ như sắp sụp đổ đến nơi. Chúng Ác Ma. Ác Quỉ càng lúc càng khiếp sợ, chúng rủ nhau kéo đến công phá dữ dội phải nói là vô cùng kinh khiếp nữa là khác, nhưng chúng không làm gì nổi. Vì có Long Thần, Ngũ Long trấn giữ Thần Thánh bảo bọc. Huệ Quang Thái Tử sáng tới đâu, thì vô minh biến tan tới đó, hào quang Chánh Giác hiện ra vô số Mặt Trời trí huệ thiêu rụi thành trì của chúng.

Cảnh giới Tổng Thể quá khứ vũ trụ vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên đã hội nhập Cội Nguồn. Đại Đồng Tổng Thể quá khứ vũ trụ. Cảnh giới tổng thể hiện tại vô lượng vô biên. Phật Thánh Tiên khắp cùng vô lượng vô biên vũ trụ đang chuyển Đại pháp luân. Cảnh giới tương lai tổng thể vũ trụ đều hiện ra, quá khứ tổng thể vũ trụ nhất nhất đều đã hiện ra. Trong tổng thể Đại Đồng thống nhất bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng hiệp nhất thống nhất quá khứ, hiện tại, vị lai vũ trụ đã hiện ra.

Như vậy quyền lực tối cao vũ trụ đã ấn chứng trao quyền cho Thái Tử, chuyển Đại Pháp Luân Ấn Bút đầy đủ. Tức thời ba Đạo hào quang từ Tâm Linh Thái Tử phóng lên hư không, theo tiếng kêu cứu cầu nguyện của nhân loại, theo luật cảm ứng của vũ trụ. Tổng thể toàn năng toàn giác Linh ứng vũ trụ, đã thọ ký kỷ nguyên vũ trụ. Kỷ nguyên vũ trụ Long Hoa ra đời, thừa hành di Chí Tổ Tiên, ban hành Thiên Tạng vũ trụ, Pháp Tạng vũ trụ, Luật Tạng vũ trụ, từ nơi Mật Tạng vũ trụ khai mở tại chốn nhân gian. Thế là Văn Hóa Cội Nguồn vũ trụ ra đời, cách đây năm nghìn năm.

Thái Tử Hùng Lan trở về ngôi vị Chí Tôn, thay mặt cho Đức Cha Trời, truyền bá chủ nghĩa Đại Đồng xuống nhân gian. Đại Đạo vũ trụ. Đưa nhân loại trở về Cội Nguồn qua sông mê đến bờ giác. Ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng đã tỏa sáng, Văn Hóa Cội Nguồn ra đời làm chấn động vũ trụ. Mặt Trời Chân Lý. Mặt Trời Công Lý. Mặt Trời Đạo Lý, bừng lên thiêu rụi lòng tà gian của lũ Ác Ma và Ác Quỉ.

Thái Tử đã hội nhập Cội Nguồn ở cương vị Chí Tôn, ở ngôi vị Chánh giác, quyền lực tối cao, quyền năng vô tận. Thay thế Đức Cha Trời chuyển Đại Pháp Luân. Nên sự thấy biết của Chí Tôn Thái Tử là sự thấy biết của bản thể Chân Tánh, vượt xa cái thấy biết của Thức Tánh. Tức là cái thấy biết bản thể của Nước, khác xa sự thấy biết của Bọt Nước.

Do sự thấy biết phát ra từ Chánh Đẳng, Chánh Giác bản thể Cội Nguồn. Nên Thái Tử đã thấy rõ tất cả, quá khứ vũ trụ, hiện tại vũ trụ, vị lai vũ trụ, cũng như tiền kiếp Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa quá khứ. Từ vô thủy quá khứ sanh ra.

Những Linh Căn Linh Hồn chuyển kiếp luân hồi liền quên mất Cội Nguồn trở thành bất giác mê muội u minh. Trải qua vô lượng kiếp tiến hóa, vô lượng kiếp tu luyện, từ bất giác mê muội u minh trở thành Hoàn giác thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Từ bọt Nước hội nhập trở về Nước, Thức Tánh trở thành Chân Tánh lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến khi viên mãn Đại Nguyện thì hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ.

Các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, đã hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ. Nếu việc đó cần thiết quan trọng đối với vũ trụ, thì các Ngài từ nơi quá khứ tổng thể Cội Nguồn Chánh giác sẽ hiện thân ra làm lợi ích cho toàn nhân loại con người.

Sở dĩ Đức Chí Tôn chưa hội nhập Cội Nguồn là vì nguyện lực Độ sanh của Đức Chí Tôn chưa viên mãn trọn vẹn. Đức Chí Tôn đã thề nguyện, khi nào tận Độ hết thảy nhân sinh hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Thì ta mới hội nhập vào ngôi vị Tổ Tiên. Đấng tối cao. Đấng lập lên vũ trụ cùng con người.

Thái Tử nhìn thấy chốn nhân gian chìm đắm trong u minh khốn khổ. Thiên Đàng không có đường lên, còn Địa Ngục rẫy đầy lối xuống, thương thay đáng thương thay. Chốn nhân gian có mấy ai thật sự lo cho Thiên Hạ, mà chỉ tranh giành Thiên Hạ để được lợi lộc mà thôi.

Chỉ có những người giác ngộ, những người thật sự thương dân, mới thật sự cứu dân thoát nạn, mà chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ, mới mong cứu nhân loại thoát khổ. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Đại Đạo vũ trụ cao thâm khó hiểu. Nhất là hoàn cảnh hiện nay, trình độ dân trí còn quá thấp kém, lại thêm đời sống còn quá nghèo hèn lạc hậu. Chữ nghĩa giấy mực chưa tinh vi còn quá lạc hậu thô sơ, không thể nào lưu chép Kinh Luân để lại được.

Vì thế ta phải sanh xuống nhân gian tới ba lần, và lần này chỉ là khai mở nền móng Cội Nguồn, mở màn kỷ nguyên Long Hoa vũ trụ ra đời, để lại Thiên Ấn. Lần hai tái sanh nhân gian ta sẽ để lại cả ẤN lẫn BÚT, thì Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng lưu chuyển ra đời mới có hiệu quả như mong muốn. Lần thứ ba giữa tiểu kiếp thứ 10 Đại hội Long Hoa toàn vũ trụ. Thọ Ký cõi nước Cực Lạc cho những người có công trong Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng theo Di chí Tổ Tiên. Cha Trời, Địa Mẫu.

Theo Thiên Luật vũ trụ, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sanh xuống chốn nhân gian, thời phải sống theo luật nhân gian. Hôm nay ta vẫn còn Phụ Thân, Phụ Mẫu, Phụ Hoàng Mẫu Hậu thương yêu ta hết mực, mang nặng đẻ đau, nuôi nấng nâng niu, chăm sóc, biết bao khó nhọc. Đạo làm con phải lo báo hiếu, đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục.

Theo Thiên Luật trong các điều khoản báo hiếu, thì khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là cao hơn cả. Phục vụ Cha Mẹ ăn ngon, mặt ấm chỉ là bậc tiểu hiếu, khuyên Cha Mẹ làm lành lánh dữ là bậc trung hiếu, truyền Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ để cho linh hồn Cha Mẹ về trời hưởng phước đó mới là bậc Đại Hiếu.

Vì thế Đại trung với Tổ Quốc. Đại hiếu với dân là tôn thờ Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn cho toàn dân. Chúng ta sinh ra và lớn lên trong sự yêu thương và đùm bọc của cha mẹ. Trong sự che chở của xã hội. Theo Thái Tử, để đền đáp công ơn ấy Không có gì hơn là truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ cho cha mẹ, cho nhân loại xã hội, thì coi như đã trả được tứ ân. Ân Cha Mẹ, ân Tổ Quốc, ân Thầy, ân Xã Hội.

* * *

Hết phần 4 chương 10 mời xem tiếp phần 5 chương 10 Long Hoa Mật Tạng. Bộ Kinh báu vật vũ trụ. Mỗi câu mỗi chữ ẩn tàng bao huyền cơ. Mỗi câu mỗi chữ là chân lý tinh hoa của cuộc sống. Những ai làm theo tu theo thì coi như vận mệnh thay đổi. Ví như cá chép hóa Rồng, không còn là cá Chép nữa.

* * *
 
CHƯƠNG 10

PHẦN 5

TIỀN THÂN THÁI TỬ


Thái Tử thấy rõ tiền thân kiếp trước của mình. Đức Chí Tôn Giáo Tổ, Kim Thân của ta hiện nay đang tĩnh tọa ở cung Long Vân, cõi Trời Thiên Vân trong Cửu Trùng Bảo Tháp. Chư Thiên canh phòng nghiêm ngặt.

Thái Tử vốn hiểu rõ việc Chư Thiên sanh xuống chốn nhân gian là điều không ai muốn, dù cho đó là hưởng tột đỉnh vinh hoa phú quí ở nhân gian. Sanh xuống nhân gian đồng nghĩa là sanh vào cõi u minh bể khổ tối tăm mù mịt Địa Ngục trần gian. Sanh xuống nhân gian thì dễ nhưng trở về Thiên Đàng thì rất khó, phải nói là vô cùng khó, có khi còn đọa luôn xuống cõi âm phủ, thì coi như hết đời vì đã lạc vào ba đường khổ. Vì thế Phật Thánh Tiên Thần Chúa phần đông sanh xuống chốn nhân gian thi hành phận sự. Đều cầu nguyện Đức Cha Trời hộ độ.

Những bậc cứu thế. Phần đông thường sanh vào nghịch cảnh, chịu trăm nghìn sự thống khổ, đánh thức tâm Linh hồi âm chuyển ý hướng thiện xa rời tội ác. Rất hiếm Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sanh ra chốn nhân gian để hưởng vinh hoa phú quí vì hưởng vinh hoa phú quí sẽ dẫn dắt Linh Hồn sa đọa nhanh chóng, ác tâm dấy khởi hết mong về Trời. Hết mong trở về ngôi vị cũ.

Trường hợp Đức Chí Tôn, sanh xuống chốn nhân gian vào Dòng Dõi Quốc Vương mà không bị Danh, Lợi, Quyền thế, Bát phong, xây chuyển, Lục trần lôi kéo là điều hi hữu hiếm thấy trong đời. Cho nên nói, đang hưởng vinh hoa phú quí muốn gì được nấy. Mà chuyển tâm hướng thiện làm lành lánh dữ là điều hiếm thấy. Phải nói những người này phần lớn là các vị Đại Thánh Đại Bồ Tát, ví như Hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Với khoản thời gian quá ngắn nơi chốn nhân gian, Thái Tử phải cố gắng mới hoàn thành nổi theo di chí của Đức Cha Trời. Để rồi Trở lại Trung Trung Thiên giới.

Theo lời dạy của Đức Cha Trời Long Hoa Lạc Long Quân. Chốn nhân gian tiểu kiếp thứ 9 sắp hết, 16 triệu 800 nghìn năm sắp qua gần đến hồi kết thúc. Chuyển sang tiểu kiếp mới là tiểu kiếp thứ 10. Nếu không xuống trần mở cửa Thiên Đàng lấp đường Địa Ngục, thì nhân loại trần gian khó mà về trời. Lại sa đọa xuống các tầng Địa Phủ. Uổng công tu luyện trải qua vô số kiếp 16 triệu 800 nghìn năm.

Gần cuối tiểu kiếp thứ 9 càng về sau nhân loại càng gặp nhiều đại họa hung hiểm do bộ máy huyền cơ xoay chuyển. Động Đất, nước biển dâng cao, mưa to gió lớn, nhiệt độ tăng cao, nhiệt độ hạ thấp, nhân loại con người khó mà thoát khỏi kiếp nạn này. Giai đoạn càng về sau càng gần cuối tiểu kiếp, Động Đất diễn biến phức tạp, càng về sau càng mạnh, lan rộng toàn cầu, những thành phố lớn chôn vùi đổ nát. Nhân loại chạy đâu cho thoát những cảnh chết chóc này. Càng về cuối tiểu kiếp mực nước biển dần dần dâng cao. Làm ngập chìm lần đất đai các châu lục, cộng thêm mưa to bão lớn tàn phá cây cối, mùa màn, lở núi sụp đồi, nhân loại phàm trần làm sao chống đỡ nổi đành phải bỏ mạng. Nào phải chỉ có vậy nhiệt độ tăng cao, hạ thấp nhất là những thế kỷ gần cuối tiểu kiếp, nhiệt độ tăng đến nổi con người còn sống sót phải ở lỗ ở hang. Hỏa hoạn do sấm sét thường xảy ra khắp nơi cùng khắp châu lục. Nhiệt độ hạ thấp đến nổi nơi đâu cũng toàn băng giá, con người dù thích nghi lần với thời tiết nhưng vẫn có người chịu không nổi đành bỏ mạng.

Nhưng điều đáng nói ở đây, thể xác nhân loại bị hủy diệt do Động Đất, do nước biển dâng cao, do mưa to bão lớn, do thời tiết tăng cao hạ thấp, nhưng Linh Hồn nhân loại sẽ về đâu? khi Thiên Đàng không có lối lên, còn Địa Ngục thì nhiều lối xuống.

Và vì thế Đức Chí Tôn đầu thai xuống trần mở ra con đường Đại Lộ đưa Thiên Hạ về Trời. Mà Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ chính là con đường đưa Thiên Hạ nhân loại phàm trần về Trời. Cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, nhân loại những ai còn sống sót chu kỳ lặp lại khởi đầu sự Hồng Hoang người tiền sử nguyên thỉ. Rồi sau đó hàng triệu năm chuyển sang giai đoạn Hồng Nguyên rồi đến Hồng Bàng. Giai đoạn Bàng Cổ sơ khai kéo dài hàng triệu năm tiến tới Hồng Bàng xã hội. Sự tiến hóa nhân loại theo chu kỳ ở mỗi tiểu kiếp na ná giống nhau, lặp đi lặp lại mãi. Cũng giống như chu kỳ Xuân Hạ Thu Đông ở năm trước, được lặp lại Xuân Hạ Thu Đông ở năm sau. Sự trùng lặp này là sự trùng lặp theo định luật tự nhiên. Cứ mỗi tiểu kiếp gần kết thúc nhân loại đã trải qua 16 triệu 800 nghìn năm. Tôi luyện tiến hóa Linh Hồn, những Linh Hồn có Đạo có Đức lần lượt sanh về Trời. Còn những Linh Hồn vô Đạo vô Đức sẽ trở về cõi âm phủ. Còn những Linh Hồn Đại ác sẽ đọa vào Địa Ngục. Những Linh Hồn ở cõi âm phủ chờ đủ nhân duyên, đầu thai trở lại nhân gian tiếp tục tu luyện tiến hóa Linh Hồn. Để cứu vớt nhân loại gần cuối tiểu kiếp thứ 9 nên Tam Giáo lần lượt tái xuất nhân gian dìu dắt nhơn sanh về Trời. Nếu không có tam giáo Phật, Thánh, Tiên ra đời, thì Linh Hồn nhân loại nhân gian sẽ lạc vào tà Ma ác Đạo, trở thành Ác Quỉ, Ác Ma cùng hung cực ác. Buộc lòng Đức Cha Trời phải tận diệt trí mạng của Ác Ma và Ác Quỉ, nếu không tận diệt thì bộ máy huyền vi vũ trụ sẽ bị Ác Ma Ác Quỉ làm đảo lộn. Đức Chí Tôn là bậc tối cao ở Thiên Giới con cả Đức Cha Trời, làm gương mẫu mở đường xuống thế trước. Cho các đàn em xuống thế sau.

PHẦN THƯA HỎI

Hỏi: Vì sao cuối tiểu kiếp thứ 9 mực nước Biển lại dâng cao ngập chìm hầu hết các Đồng Bằng Châu Lục?

Đáp: Theo nguyên lý Tiến Hóa vũ trụ, hể có sinh thời có tử, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Thể lực vũ trụ do bản thể Linh giác vũ trụ tạo ra, hể có sinh thời có tử, từ dạng này chuyển qua dạng khác. Thể Lực cũng vậy, Thể Lực được sanh ra thời phải đến lúc già đến lúc tử, chuyển sang qua dạng khác, giai đoạn khí. Khí già chuyển ra nước ở dạng thể hơi. Nước già sẽ chuyển thành màu mỡ lớp bụi phù sa vũ trụ và bị ép rớt xuống mặt Địa Cầu. Như trên đã nói Thể Lực già chuyển sang thể khí. Thể khí già chuyển sang thể lỏng nước. Như chúng ta đã biết hơi nước và nước là là do nhiệt độ nóng lạnh tạo ra. Gần cuối tiểu kiếp nhiệt độ nóng lạnh hạ thấp, tăng cao, làm cho thể lỏng ở lúc dạng hơi, lúc ở dạng nước. Nhiệt độ trên các tầng khí quyển hạ xuống thấp, thì các tầng lớp ở dạng thể hơi, đều chuyển thành nước rớt hết xuống mặt đất, Làm giảm đi sự kìm h.ãm bớt sức nóng của Mặt Trời. Thế là dưới mặt trái đất nhiệt độ tăng cao làm cho Băng tuyết băng giá ở hai đầu cực Nam, cực Bắc tan chảy làm tăng thêm mực nước biển. Với hai nguyên do chính trên đã làm cho mực nước biển dâng cao làm ngập chìm hầu hết các đồng bằng của các Châu lục.

Hỏi: Vì sao giữa tiểu kiếp thứ 10 mực nước biển cạn lần lộ ra đất đai bằng phẳng rộng lớn?

Đáp: Như chúng ta đã biết hễ có sanh ra thời phải có già, có tử, vì thế Thể Lỏng nào có ngoại lệ. Lớp nước già ở cuối tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, thì bắt đầu thoái hóa sự già cỗi, cô đọng chuyển thành phù sa. Sự chuyển hóa ấy có hai lớp, lớp nước già nằm sâu trong lòng đất, Đại Dương và lớp nước già nằm sâu, dưới lớp đáy đại dương, cô đọng chuyển thành phù sa, tạo ra lớp màu mỡ mới cho trái đất. Như chúng ta đã biết Đại Đồng Bình Đẳng là Đạo Luật của Trời, đem chỗ cao lấp xuống chỗ sâu. Cuối tiểu kiếp là những trận mưa khủng khiếp, làm lở núi sụp đồi. cũng như những trận động đất khủng khiếp, làm thay đổi lục địa, Thậm chí tách đôi lục địa ra. Những trận đại Hồng Thủy mang theo đất đá bồi lấp xuống chỗ sâu. Giữa tiểu kiếp thứ 10 Thể Lực chuyển hóa sanh ra Thể Khí (khí thiên tiên) tuổi thọ con người ở vào thời điểm ấy tăng lên 8 muôn 4 nghìn tuổi, con người sanh ra phần nhiều không cần tu thiền luyện khí cũng có Thân Thông. Thể Khí chuyển hóa thành Thể Lỏng tăng lên đỉnh điểm, đã hạn chế sức nóng của Mặt Trời, nhiệt độ Trái Đất ổn định trở lại bình thường, Cực Nam Cực Bắc quả Địa Cầu đóng băng trở lại. Những yếu tố nói trên, làm cho mực nước biển cạn lần đất đai bằng phẳng lộ ra rộng lớn. Cứ thế trải qua hàng triệu năm. Cho đến khi Hỏa Tai nổi lên tiếp nối nhau 3 nghìn năm khắp địa cầu hủy diệt muôn sanh linh cùng vạn vật, trong đó có nhân loại con người. Địa Cầu đất đai không còn bằng phẳng như thời Hồng Hoang, Hồng Nguyên, Hồng Bàng. (Xem bộ kinh sau thời Hậu Đế sẽ nói rõ hơn).

Nói tóm lại. Ở kiếp giảm của tiểu kiếp. Nhân loại trần gian trải qua ba lần kiếp nạn hủy diệt.

Kiếp nạn thứ 1 là Thủy Nạn ở cuối tiểu kiếp kéo dài 1 nghìn năm. Chuyển sang tiểu kiếp mới, tiểu kiếp tiếp theo.

Kiếp nạn thứ 2 là Hỏa Nạn ở gần giữa kiếp giảm núi lửa phụt lên chỗ nầy đến chỗ khác, khắp địa cầu kéo dài 3 nghìn năm tạo ra vô số núi non lồi lõm Đại Cầu không còn bằng phẳng như trước nữa.

Kiếp nạn thứ 3 là Phong Tai tiếp theo ở vào giai đoạn Hồng Đế sau thì Hồng Bàng vài triệu năm kéo dài 2 nghìn năm. Nhân loại sống sót qua kiếp nạn Phong Tai. Trở thành người nguyên thủy thời ăn lông ở lỗ. Và đến giai đoạn Thủy Tai ở cuối tiểu kiếp. Chuyển qua tiểu kiếp mới. Trở thành người Thỉ Tổ Hồng Hoang.

* * *

Hết phần 5 chương 10 mời xem tiếp phần 1 chương 11 Long Hoa Mật Tạng.

* * *



CHƯƠNG 11

PHẦN 1

THIỆN CÒN – ÁC MẤT

THIỆN SIÊU – ÁC ĐỌA


Những Linh Hồn quá ác hủy báng lời dạy trong kinh văn sẽ bị huyền cơ xoay chuyển đi vào tận diệt. Hủy bỏ trí mạng, ý mạng, trở về tánh giác u minh, sống theo cảm giác, cảm tính, tức là tính giác của loài cây cỏ, côn trùng, thảo mộc, rồi lần lần tiến hóa tu luyện chuyển lên loài Cầm Thú, trải qua vô lượng vô biên số kiếp, chờ đủ nhân duyên Linh Hồn mới được đầu thai làm người uổng thay, uổng thay.

Vì thương Nhân Loại sai đường Lạc Đạo, nhất là giai đoạn cuối tiểu kiếp nên Đức Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ truyền lại chốn nhân gian. Kế theo sau đó Phật giáo, Thánh giáo, Tiên giáo xuống trần mở đường dẫn dắt nhân loại về Trời, lập công với Đức Cha Trời. Hoàn thành tâm nguyện Đại Nguyện.

Những người làm theo lời dạy của Đức Chí Tôn Thái Tử, thì siêu sanh làm Vua làm Chúa các tầng Trời, đúng như những gì Đức Cha Trời truyền dạy. Nghe lời Đức Cha Trời dạy bảo thì trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa làm chủ vũ trụ. Những Linh Hồn nghịch lại lời dạy của Đức Cha Trời, trở thành Linh Hồn Đại ác. Thì sẽ bị Đức Cha Trời hủy diệt ý căn trí căn, tức là mạng căn linh hồn trở về tánh giác u minh, sống theo cảm giác, cảm tính. Ác ý ác trí đã bị hủy diệt. Thuận theo Thiên Ý Cha Trời Thiện căn phước báo nên nói là còn. Nghịch lại Thiên Ý Cha Trời Linh Căn Huệ Mạng bị hủy diệt nên nói là ác mất. Những kẻ chống phá Văn Hóa Cội Nguồn nhất định Linh Căn Huệ Mạng bị hủy diệt. Chỉ còn linh giác như loài cỏ cây. Những Linh Hồn làm ác là do hoàn cảnh tạo ra. Như chiến tranh như hận thù, nhân loại tận diệt lẫn nhau. Thì không bị Đức Cha Trời hủy diệt, nên nói Thiện siêu lên thiên đàng, ác sa đọa xuống các tầng địa phủ.

Những gì Quốc Tổ nói ra, chính là Thiên Ý Cha Trời. Đã là Phật, Thánh, Thần, Chúa, thì nhất nhất tuân theo. Thiên ý Cha Trời cũng chính là Thiên Luật vũ trụ. Phạm luật Trời thì nhất định bị huyền cơ xoay chuyển muôn điều tai họa ập đến. Không trừ bất cứ một ai. Dù cho đó là vị vua hùng mạnh nhất trần gian cũng bị cơ trời xoay chuyển tận diệt.

* * *

Hết phần 1 chương 11 mời xem tiếp phần 2 chương 11 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Long Hoa Mật Tạng Kinh là Bộ Kinh tối Thượng Thừa Mật Tạng. Những tinh hoa đi đến thành công, là kim chỉ nam cho đạo trị Quốc An Dân thái bình thịnh vượng dân giàu nước mạnh an lạc. Mỗi lời trong kinh là mỗi Thiên Ý Cha Trời. Nói tóm lại: Con đường lên trời nhanh nhất chính là thuận theo Thiên Ý Cha Trời. Con đường sa địa ngục nhanh nhất chính là nghịch lại Thiên Ý Cha Trời. Thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nhanh nhất, chính là thuận theo Thiên Ý Cha Trời. Làm ăn giàu sang bậc nhất, cũng chính là lập công với trời Đại Phú do thiên, tiểu phú do cần, mưu sự ở người nhưng thành sự ở Trời, mưu sự tại nhơn thành sự tại Thiên. Trời không ban phúc đến dù tài giỏi cho mấy cũng chẳng được gì.

* * *



CHƯƠNG 11

PHẦN 2

VÌ SAO TỔ TIÊN SANH TẠO GIỐNG NGƯỜI


Vì Đức Tổ Tiên muốn có con cháu cai quản trông coi thế giới vũ trụ do mình sáng tạo lập ra. Nên Đức Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên tóm thâu Tiên Thiên Chân Khí Tinh Hoa Chơn Dương, Chơn Âm vũ trụ. Rồi hiện ra hai người một Nam một Nữ đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, Cốt Tiên, Cốt Rồng hai đấng Cha Trời và Địa Mẫu.

Vì sao gọi Đức Cha Trời là Long Hoa Cửu Huyền, Ấn Quang Tối Thắng Như Lai?

LONG:
Là nói Tinh Cốt ÂM DƯƠNG vốn hình Rồng. Cốt lõi xương sống con người hình chữ S. Tinh Cốt Đức Cha Trời là Cốt Long. Hay gọi là Cốt Rồng.

HOA: Là nói lên Thân Tướng của Đức Cha Trời là Tinh Hoa Tiên Thiên vũ trụ, kết tụ Thân Tướng đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp thuộc Dương Tướng Nam Đức Cha Trời.

Như Vậy Long Hoa đồng nghĩa là Tiên Rồng. Hội Long Hoa chính là hội Tiên Rồng. Truyền Thống Anh Linh Dân Tộc Việt Nam.

CỬU:
Là nói lên th.ân thể của Đức Cha Trời gồm đủ chín khiếu. Hai mắt, hai mũi, hai tai, miệng, lỗ tiểu, lỗ tiện, là Chín.

HUYỀN: Là nói th.ân thể của Đức Cha Trời là Tinh Hoa Đại Thiên vũ trụ được thu nhỏ. Tiểu Thiên vũ trụ. Đại Thiên vũ trụ. Tiểu Thiên vũ trụ. Liên quan mật thiết, tương thông với nhau. Nhỏ mà Lớn. Lớn mà Nhỏ, không khác nhau, đại thiên vũ trụ thu nhỏ gọi đó là huyền.

ẤN QUANG: ẤN là dấu ấn Tổ Tiên hiện ra Đức Cha Trời. Độc nhất Vô Nhị có một không hai. Quyền năng vô hạn. Quyền uy Tối Thượng. QUANG là soi sáng cùng khắp. Chỉ đường cứu khổ con cháu. Lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác, làm chủ vũ trụ.

TỐI THẮNG: Là nói lên không ai hơn được Đức Cha Trời. Không có việc gì mà Đức Cha Trời không biết. Không có việc gì mà Đức Cha Trời không làm được. Cho đến hủy diệt vũ trụ, lập lên vũ trụ mới.

NHƯ LAI: NHƯ là nói lên Đức Cha Trời mãi mãi thường còn, trước sao sau vậy không thay, không đổi. Quá khứ, hiện tại vị lai như nhau. LAI là kéo dài vô lượng thọ, không diệt thường còn. Lúc nào nhân Loại cần đến Đức Cha Trời, liền có sự cảm ứng ngay.

Long Hoa Cửu Huyền Ấn Quang Tối Thắng Như Lai là tên của Đức Cha Trời. Hay còn gọi đấng Cửu Huyền Ông Cha Nhân Loại.

Vì Sao Gọi Đức Mẹ Trời Là Tiên Cơ Đức Mẹ Địa Mẫu Dưỡng Sanh Như Lai?

TIÊN:
Là nói đến Tổ Tiên hiện thân ra tốm thâu Tiên Thiên Chơn Âm Chân Khí hiện ra thể tướng phụ nữ đầu tiên vũ trụ đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp. ÂM TƯỚNG.

CƠ: Là nói lên sự cơ cảm, ứng dụng cơ mật liên quan đến vũ trụ. Mật thiết liên quan đến Nhân Loại con người.

ĐỨC: Là nói tấm lòng thương nhân loại vô tận, bao la vô bờ bến lúc nào cũng cứu khổ cứu nạn nhân loại con người. Những người con trong lòng Mẹ vũ trụ.

MẸ: Là nói lên Người Mẹ Vũ Trụ, người Mẹ sanh ra Nhân Loại con người. Đấng sanh thành. Nói xa hơn nữa Đấng sanh ra vũ trụ. Sanh ra Trời Đất. Sanh ra Linh Hồn Nhân Loại, sanh ra thể xác con người. Mẹ là Đấng sanh thành sanh ra tất cả. Đức Mẹ chính là Tổ Tiên hiện thân ra.

ĐỊA MẪU: Là nói lên tất cả sự sống đều do Mẹ tạo ra. Mẹ là Mẫu. Mẫu là Mẹ. Sự sống toàn vũ trụ là sự sống do Mẹ. Mẫu tạo ra. Sự sống Linh Hồn, sự sống thể xác. Đều ở trong lòng Địa Mẫu cả. Phật Thánh Tiên Thần Chúa. Nhân Loại phàm trần. Quỉ Ma toàn vũ trụ cũng sanh sống trong lòng Địa Mẫu mà thôi. Ví như Bọt Nước sống trong nước dù cho đó là Bọt Nước, bọt nước ác hay bọt nước thiện. Bọt nước chỉ tồn tại trong bản thể của nước. Rời khỏi bản thể của nước, Bọt nước sẽ không còn tồn tại.

DƯỠNG SANH: Là nói lên sự sanh ra sự sống, Dưỡng nuôi sự sống. Để cho sự sống luôn luôn được tồn tại tiến hóa.

NHƯ LAI: Là nói Đức Mẹ Địa Mẫu trường tồn theo thời gian. Trước sau không hề thay đổi như như thường còn mãi mãi tận cùng vị Lai (Bất Diệt).

Nhân Loại con người cầu nguyện Đức Mẹ Địa Mẫu đều được Linh ứng ngay. Nếu lời cầu nguyện đó hiệp với Văn Hóa Cội Nguồn phải nói là cầu chi đặng nấy. Đức Tổ Tiên lập lên vũ trụ. Rồi hiện thân ra con người. Đó là Đức Cha Trời Long Hoa Cửu Huyền Ấn Quang Tối Thắng Như Lai và Tiên Cơ Đức Mẹ Địa Mẫu Dưỡng sanh Như Lai. Một Âm một Dương, một Nam một Nữ, một Cha một Mẹ. Cha Trời Chủ Quản thế giới vũ trụ Linh Hồn, Địa Mẫu Chủ Quản thế giới vũ trụ vật chất, vì vậy phước Đức do Cha Trời ban, giàu sang do Mẹ Địa Mẫu thưởng.

Để có người thừa kế cơ nghiệp, trông coi vũ trụ. Nên Tổ Tiên hiện thân ra Đức Cha Trời. Đức Địa Mẫu, sanh con đẻ cháu, lưu truyền nòi giống Rồng Tiên. 100 người con đầu tiên ấy, chính là Ông Bà Tiên Tổ tối cao của Nhân Loại con người ngày nay. Thái Tử chính là 1 trong 100 người con của Âu Cơ Địa Mẫu sanh ra tại núi Long Hoa chốn Hồng Trần. Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Những người con của Địa Mẫu Âu Cơ. Hiện đang thống lãnh Tam Thiên Đại Thiên thế giới, làm chủ vũ trụ.

* * *

Hết phần 2 chương 11 mời xem tiếp phần 3 chương 11 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Cửu Huyền Thất Tổ là Tổ Tiên của 100 họ. Nói cho cùng muôn họ đều chung hai đấng Cửu Huyền. Tất cả là con cái của Cha Trời Mẹ Trời. Cho đến Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Cũng chỉ là con cái của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Đại Đồng Bình Đẳng. (Xem Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa sẽ rõ hơn)

Muôn họ đều chung một Cửu Huyền

Cha Trời, Địa Mẫu đấng Rồng Tiên

Ứng linh cùng khắp muôn vạn cõi

Chuyển xây hoàn vũ đấng Thiêng Liêng

Một niệm thành tâm lòng tưởng nghĩ

Tiêu tan tội lỗi sống bình yên

Huống chi thờ phụng đèn hương khói

Cầu chi đặng nấy phúc vô biên.
 
CHƯƠNG 11

PHẦN 3

THIÊN ẤN RA ĐỜI


Để hiểu thêm về hai chữ Tổ Tiên – Tiên Tổ.

Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên khác với Ông Bà Tiên Tổ.

Ông Bà Tối Cao Tiên Tổ, của Nhân Loại con người, được sanh ra trước Tiên, tại ngọn núi Long Hoa cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Chữ Tiên của ngôi vị Ông Bà Tiên Tổ sanh ra trước Tiên. Không phải Tổ Tiên.

Như vậy Tổ Tiên và Ông Bà Tiên Tổ, hai ngôi vị khác nhau. Ông Bà Tiên Tổ, thuộc ngôi 3 không phải ngôi 1 ngôi 2 ba ngôi tối cao vũ trụ. Theo thứ tự an bày sắp xếp như sau.

Ngôi 1: Khai Hóa Tổ Tiên. Vô Vi.

Ngôi 2: Cha Trời – Địa Mẫu. Hữu Vi. Chánh Thân Chánh Mẫu.

Ngôi 3: Ông Bà Tối Cao Tiên Tổ, đầu tiên nhân loại con người.

Ngôi 4: Ông Bà, Cao Đời, Cao Tằng, Cao Tổ, Cao Tông. Cũng như Cha Mẹ hiện tiền. điều mang giai phụ. Phụ Ông, Phụ Bà, Phụ Thân, Phụ Mẫu.

Ngôi 5: Con Cái, Cháu, Chắt, Chút, Chít.


Với trách nhiệm Ông – Bà – Tiên Tổ. Có bổn phận, cứu vớt con cháu đang sắp đi vào đại nạn nơi chốn nhân gian, giai đoạn gần cuối tiểu kiếp. Ông Bà Tiên Tổ, Lần lượt xuống trần cứu với nhân loại Cháu con. Và người mở màn đầu Tiên xuống trần Chính là Đức Chí Tôn Giáo Tổ. Đầu thai làm con Quốc Vương Kinh Dương Vương cách đây năm nghìn năm.

Nhân Loại dù đã trải qua tu luyện tiến hóa linh hồn gần 16 triệu 800 nghìn năm ở tiểu kiếp thứ 9. Nhưng trình độ dân trí còn quá thấp kém, còn quá lạc hậu. Nhất là lạc hậu về khoa học vật chất, lạc hậu về khoa học tinh thần, lạc hậu về khoa học xã hội, lạc hậu về Đạo Đức xã hội. Nói chung là trình độ dân trí còn quá thấp. Nên đời sống xã hội Thời Quốc Tổ dựng nước Văn Lang đầy dẫy thống khổ khó khăn. Hầu hết lạc vào tà Ma ác Đạo, gieo nhân ác, bỏ nhân lành. Kết quả bao giờ cũng thảm khốc. Nhân tính con người còn nặng tính Dã Thú. Tàn sát chém giết lẫn nhau không ngừng nghỉ. Mạnh được yếu thua, xác người thi nhau ngã gục.

Thái Tử sau khi hội nhập Cội Nguồn. Thời đã tìm ra Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật Vũ Trụ. Chủ Nghĩa Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ Đại Đồng. Nhưng nhìn thấy trình độ dân trí còn quá thấp. Cũng có đôi lúc Thái Tử sinh ra ngán ngẩm cho cảnh trần thế, nhất là trình độ lạc hậu của Nhân Loại con người. Theo lời Đức Cha Trời dạy thời ta phải đầu Thai xuống chốn nhân gian tới ba lần, mới hoàn thành di mệnh của Đức Cha Trời giao phó. Nay ta đã hiểu, vì sao Đức Cha Trời lại dạy ta như vậy. Vì hiện nay trình độ dân trí còn quá thấp, lại thêm chữ viết ở vào cảnh giới sơ khai, chưa hoàn hảo khó diễn ý khai cơ lưu chép kinh luân.

Thiên Bút còn ẩn. Thiên Ấn ra đời duy trì Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ. Thái Tử nghĩ tuy ta là Đức Chí Tôn Thiên Đế. Nhưng đã đầu thai làm người phàm tục ta phải sống như người phàm tục, gần gũi nhân loại mới dìu dắt được nhân loại. Hiện giờ ta đã trở về ngôi vị Chí Tôn quyền năng vô hạn. Nhưng ta phải sống theo lối người trần. Quyền năng có hạn. Cũng ốm cũng đau cũng bệnh cũng già cũng chết, cũng ra công khó nhọc xây dựng nước non, cũng phải chiến đấu với Yêu Tinh Quỉ Dữ mở mang bờ cõi. Nói chung ta phải là tấm gương trong sáng, nhân ái, cần cù, gian khổ cho nhân loại soi chung. Hiện nay nhân loại trên toàn thế giới phương Đông cũng như phương Tây. Cuộc chiến tranh Thần Giáo kéo dài hơn trăm nghìn năm. Để phù hợp với tình hình nhân loại. Nhất là 62 giáo phái Thần Giáo. Đang cạnh tranh khốc liệt. Để phù hợp Thiên Cơ Bộ Máy Huyền Vi của Tạo hóa. Thái Tử theo trình độ dân trí mà chuyển đại pháp luân đem Thiên Ấn truyền lại cho hậu thế. Lấy tâm truyền tâm. Lấy khẩu truyền khẩu. Lấy ý truyền ý. Lấy vật truyền vật, đi vào đời sống xã hội. Thiên Bút chưa ra đời. Vì khi ấy chưa có giấy bút cũng như chữ viết còn quá thô sơ, nên không thể lưu chép kinh luân được. Nên nói Thiên Bút còn ẩn chưa ra đời.

* * *

Hết phần 3 chương 11 mời xem tiếp phần 4 chương 11 Long Hoa Mật Tạng.

Mật Tạng đại kinh quá nhiệm mầu

Kinh Văn nghĩa lý thật cao sâu

Có duyên gặp đặng nên truyền tụng

Giải khổ bình an dứt vạn sầu.

* * *



CHƯƠNG 11

PHẦN 4

SỰ ĐẶT TÊN


Tuy sự việc đã xảy ra cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Nhưng Thái Tử vẫn thấy rõ như ở trước mắt. Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Sau khi sanh con và nuôi con khôn lớn. Một hôm Đức Cha Trời nói với Mẹ Trời rằng: Hôm nay các con đã lớn. Hai Ta dẫn con tham quan những gì mà Tổ Tiên khai tạo ra.

Bà dẫn lấy 50 Nữ làm quen với núi rừng. Còn ta dẫn 50 Nam làm quen với biển Đảo. Thái Tử nhớ lại chuyện xưa Cha Trời Mẹ Trời dẫn con cái tham quan những gì mà Tổ Tiên tạo ra. Thái Tử cảm thấy bùi ngùi như mới xảy ra gần đây. Thái Tử nhớ có một lần 50 anh em cùng đi với Đức Cha Trời. Bỗng nhiên gây gổ đánh nhau, cũng bởi gì màu da khác biệt. Đức Cha Trời thấy vậy liền quở: Các con không nên đánh lộn nhau. Các con tuy khác màu da. Nhưng các con là anh em một nhà. Cùng chung trong một Bào Bọc. Cùng một Mẹ sinh ra. Mẹ các con là Mẹ Trời. Nên việc sanh con cũng có khác ứng dụng vào Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Nên các con có nhiều sắc da như vậy.

Cha Trời chỉ vào anh em da Trắng nói: Các con thuộc hành Kim (Bạch Ngọc). Cha Trời lại chỉ vào anh em da Đen nói: Các con thuộc hành Thủy (Kim Ngọc). Cha Trời lại chỉ vào anh em da Chàm nói: Các con thuộc hành Mộc (Bích Ngọc). Cha Trời lại chỉ vào anh em da Đỏ nói: Các con thuộc hành Hỏa (Xích Ngọc). Anh em da Vàng vô cùng hồi hộp chờ nghe Đức Cha Trời truyền chỉ. Đức Cha Trời nhìn anh em da Vàng, rồi nhìn lên không gian vũ trụ nói các con thuộc hành Thổ Trung Ương (Hồng Ngọc).

Các con phải chịu nhiều gian khổ, tương sanh tương khắc do Kim – Mộc – Thủy – Hỏa gây ra. Nếu các con không hiểu nhau hòa thuận cùng nhau, thời các con khó mà về trời sanh xuống các tầng địa phủ hết thảy. Da Vàng phải có trách nhiệm đoàn kết anh em. Chỉ có đoàn kết anh em thời các con mới được về trời. Cha Trời chỉ anh em da vàng nói năm màu da anh em sau phải nhờ vào các con.

Sau lần dạy bảo của Đức Cha Trời, năm màu da anh em đoàn kết chung sống với nhau, không còn gây sự nữa. Trải qua một thời gian. Có lẽ Cha Trời Địa Mẫu thấy con cái của mình đã biết hòa cùng nhau cũng như hòa mình vào non sông biển Đảo. Nên Đức Cha Trời Đức Địa Mẫu dẫn con về một chỗ. Nơi Đồng Bằng phía Đông Bắc dãy núi Long Hoa.

Đức Cha Trời dạy sự sống phát triển của các con chính là nơi Đất Bằng. Không phải quá cao hay quá thấp. Đức Cha Trời chỉ về phương Nam có dãy núi cao chọc Trời to lớn rộng dài xa thăm thẳm uốn lượn, dáng hình như một con Rồng khổng lồ đang vươn mình bay về vũ trụ rồi nói. Dãy núi cao chọc Trời kia là dãy núi Long Hoa. Nơi Cha Mẹ sanh tạo ra các con.

Hôm nay là ngày Cha Mẹ chia tay với các con trở về hội nhập vào Cội Nguồn bản thể tối cao vũ trụ. Các con ghi nhớ lời Cha dạy:

– TÊN CỦA CHA LÀ: LẠC LONG QUÂN.

– TÊN CỦA MẸ LÀ: ÂU CƠ.


Khi nào các con thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Thời các con sẽ biết tên thật của Cha của Mẹ cũng như uy danh của Cha của Mẹ. Khi các con lâm nạn. Các con hãy tưởng nhớ đến tên của Cha Mẹ. Lạc Long Quân và Âu Cơ thời các con sẽ tai qua nạn khỏi. Các con hãy nhớ lấy. Khi các con trưởng thành, trải qua nhiều kiếp. Các con tự tìm về Cội Nguồn, thì các con mới hiểu rõ Cha Mẹ là ai, từ đâu đến. Tên thật của Cha Mẹ là gì. Tộc Danh Cha Mẹ.

Đó là điều bí mật, các con tự khám phá tìm hiểu vậy. Dặn dò dạy bảo con cái xong. Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Cùng Mẹ Âu Cơ. Từ từ bay lên hai tòa sen báu, vẫy tay chào tạm biệt các con. Hai tòa sen báu có lẽ cũng buồn lây, nên hào quang kém đi phần rực rỡ. Hai tòa sen báu từ từ bay lên không trung xa dần xa dần rồi biến mất. Đàn con thơ ngơ ngác nhìn theo cho đến khi Cha Mẹ mất hút vào chốn xa xăm. Để lại sự Mồ Côi Mồ Cút, với bao nỗi khó khăn về cuộc sống. Thái Tử buông tiếng thở dài từ lâu đã hiểu rõ. Cha Trời Lạc Long Quân. Mẹ Âu Cơ chỉ là tên sau khi có con. Còn Tộc danh Cha Trời là Long Hoa Cửu Huyền. Uy Danh Cha Trời là Ấn Quang, Tối Thắng Như Lai. Còn tên Lạc Long Quân, hay Âu Cơ là tên sau khi Cha Mẹ Trời đã sanh con. Và chúng ta ngày nay cũng không khác mấy. Tên Tộc và tên sau khi sanh con. Nếu người có chức có quyền còn có tên uy danh. Như Bí Thư, Chủ Tịch, Tổng Thống vân. và..

Thái Tử cũng hiểu quá rõ. Đức Cha Trời. Mẹ Trời. Mới thật là Chánh Thân Chánh Mẫu. Cha Mẹ sanh ra Nhân Loại con người Ông Bà Tiên Tổ tối cao nhân loại (Xem Bộ Kinh Long Hoa Thiên Tạng ) nói rõ hơn.

Còn Cha Mẹ chốn nhân gian. Chỉ là Cha Mẹ kế tục phụ diễn lưu truyền nòi giống con người, đóng vai Phụ Thân Phụ Mẫu mà thôi. Vì vậy quyền quyết định vận mệnh của nhân loại con người ở vai chính. Chánh Thân Chánh Mẫu. Cha Trời Mẹ Trời. Không phải ở vai phụ, phụ Thân phụ Mẫu phụ diễn lưu truyền nòi giống con người chốn nhân gian. Vận mệnh của một Quốc gia cũng thế. Mưu sự ở người. Thành sự ở Trời.

Không có một ai cải Trời mà thành. Và cũng không có một ai làm quan, làm vua, cũng như đại giàu sang mà không có Thiên Ý ban cho. Nên nói mưu sự tại nhơn thành sự tại Thiên. Thuận Thiên giả tồn nghịch Thiên giả vong. Thuận theo ý Trời thì tồn tại, nghịch lại Ý Trời thì lụn bại tiêu vong.

Một đất nước mà thuận theo Thiên Ý Trời. Không những Độc Lập kéo dài, mưa thuận gió hòa, ăn nên làm ra, dân giàu nước mạnh. Còn những người cuồng ngông đi ngược lại Thiên Ý. Không bao lâu biến thành những Chú Hề tuồng đời, để cho đời sau giễu cợt châm biếm, chế giễu, phê phán.

Quy thuận Cội Nguồn, cũng giống như bọt Nước Quy thuận về Bản thể Nước. Thời Bọt Nước ấy tức khắc liền được phát huy sự to lớn. Bọt Nước đi ngược lại bản thể của Nước, là tự mình hủy diệt lấy mình. Đó là định luật xưa nay không gì thay đổi. Nghịch lại Thiên Ý không phải là những Chú Hề tuồng đời sao.

* * *

Hết phần 4 chương 11 mời xem tiếp phần 5 chương 11 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Chỉ cần nghe một câu một chữ thoáng qua lỗ tai thời cũng đã vượt qua nhiều kiếp nạn. Huống chi đọc qua một phần, một chương. Lại tin theo làm theo thời những người nầy đi đứng nằm ngồi đều được Phật, Thánh, Tiên, Thần, chúa gia hộ phù hộ, Quốc Tổ bảo bọc, Hồn Thiên Dân Tộc phù trì, Làm gì cũng thuận buồm xuôi gió. Con cái hiển đạt công danh. Vậy mới biết không còn cái lợi nào hơn, là Đọc Kinh, Tin Kinh, Làm Theo Kinh.

Có duyên gặp đặng kinh nầy

Coi như thoát khỏi cuộc đời gian truân

Tin Trời, Trời cứu trời ban

Tin Kinh thời được đăng đàn cung mây

Lời kinh vi diệu thậm thâm

Linh Thiên ứng hóa linh thông diệu kỳ

Chỉ cần một chữ nhớ ghi

Cũng thời qua khỏi họa tai khốn cùng

Niềm tin là cội phúc lành

Tin Kinh, Kinh cứu, tin Trời, Trời ban.

* * *



CHƯƠNG 11

PHẦN 5

TẤT CẢ CHỈ LÀ MỘT


Thái Tử hội nhập Cội Nguồn đến nơi tột cùng thật tướng, thật tánh tối cao vũ trụ. Tối Cao Đại Linh Hồn vũ trụ chỉ có một. Còn Tiểu Linh Hồn vũ trụ, thì hằng hà sa số vô tận vô biên không thể tính đếm, hay luận bàn cho hết được, Đại Linh Hồn, Tiểu Linh Hồn, vốn là một. Ví như Nước sanh ra bọt nước. Bọt nước cũng chính là nước.

Cội Nguồn của Bọt Nước Chính là Nước. Cội Nguồn của Tiểu Linh Hồn là Đại Linh Hồn. Tiểu Linh Hồn hội nhập Cội Nguồn. Ví như Bọt Nước tan biến trở về là Nước. Hội nhập vào bản thể của Nước. Bản thể Độc Lập Tự Do Đại Đồng Bình Đẳng. Không có sức mạnh nào hơn sức mạnh Đại Đồng tổng thể Linh giác vũ trụ, phát huy sức mạnh Đại Đồng. Sức mạnh Tổng thể là sự phát huy sức mạnh cao nhất, không còn sức mạnh nào hơn nữa. Sức mạnh khai Thiên lập Địa, sức mạnh đời non lấp biển.

Thái Tử hội nhập Cội Nguồn trở lại ngôi vị Tổ Tiên. Tức là hội nhập tổng thể Linh giác Đại Đồng Bình Đẳng tối cao vũ trụ. Liền thấu đạt hết thảy quá khứ – hiện tại – vị lai của vũ trụ. Mật Tạng vũ trụ hiện rõ.

Tất cả Tiểu Linh Hồn đang sanh sống khắp cùng vũ trụ, cũng chính là Đại Linh Hồn của Tổ Tiên Khai Hóa khai tạo sanh ra. Tiểu Linh Hồn vũ trụ, đại Linh Hồn vũ trụ ở hai dạng khác nhau Nước và Bọt Nước. Chánh giác và bất giác, Thức Tánh và Chân Tánh. Tiểu Linh Hồn và Đại Linh Hồn tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đại Linh Hồn Tổ Tiên Chánh giác Nước Tiểu Linh Hồn, Cháu con, Thức giác Bọt nước, Bọt Nước cùng Nước không khác nhau. Chỉ khác nhau ở chỗ Mê hay Ngộ. Một Biết mình là ai, một không biết mình từ đâu sanh ra.

Những Tiểu Linh Hồn biết mình từ đâu sanh ra. Biết như thế gọi là Ngộ. Những Tiểu Linh Hồn không hiểu mình từ đâu sanh ra như thế gọi là Mê. Nếu tất cả Tiểu Linh Hồn Đồng hội Ngộ Chân Tâm Chân Tánh, từ bọt Nước, trở về nguyên căn là Nước. Hội nhập Bản thể Cội Nguồn. Đại Đồng Bình Đẳng. Thì tất cả trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Trở về ngôi vị Tối Cao Khai Hóa Tổ Tiên. Đại Linh Hồn tối cao vũ trụ. Đấng lập lên tất cả, lập lên vũ trụ và hiện thân ra con người. Linh giác Tối Cao vũ trụ là Thiên Thể Tiên Thể Linh Giác Đại Đồng Bình Đẳng. Thống nhất.

* * *

Hết phần 5 chương 11 mời xem tiếp phần 1 chương 12 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh tối thượng thừa. Phải là người thượng Căn thượng Cốt mới thấu hiểu được kinh văn. Đã là Mật Tạng thì những bí mật vũ trụ đều nằm trong kinh văn. Nói chi hiểu hết Long Hoa Mật Tạng. Chỉ cần hiểu được một phần một chương cũng đã là hi hữu lắm rồi. Không còn sa đọa nơi tam đồ khổ nữa. Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh.

Về Trời nào có khó chi

Chỉ cần đọc tụng nhớ ghi một lời

Giảng thông câu chữ suốt thời

Thành Tiên thành Thánh xa vời nữa đâu

Huống chi truyền bá kinh luân

Ra công giảng giải cho người khác nghe

Người nầy muôn vạn kiếp sau

Đứng đầu đại chúng làm vua cõi trời

Mới hay kinh quý tuyệt vời

Có kinh là có những gì ước mong.

* * *



CHƯƠNG 12

PHẦN 1

CHỦ NGHĨA ĐẠI ĐỒNG


Nguồn gốc sự sống. Nguồn gốc Linh Hồn. Nguồn gốc con người. Nói chung là nguồn gốc Nhân Loại. Cội Nguồn Nhân Loại Vốn từ Bản Thể Linh Giác Tối Cao Vũ Trụ Nguồn gốc Độc Lập Tự Do, Đại Đồng, Bình Đẳng sanh ra. Bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Tiên Thể Khai hóa Tổ Tiên. Không những Tiên Thể. Đại Đồng Bình Đẳng. Mà còn là Tiên Thể Độc Lập. Tự Do. Tối Cao vũ trụ. Đức tính Bình Đẳng. Độc Lập. Tự do, là Đức tính tự nhiên, sẵn có trong bản thể Linh giác tối cao Tiên Thể vũ trụ.

Như chúng ta đã biết. Bản thể Linh giác tối cao Tiên Thể vũ trụ. Chính là Đại Linh Hồn vũ trụ. Như chúng ta đã hiểu. Tiểu Linh Hồn có ra là từ Đại Linh Hồn phần Thức tạo ra. Ví như Bọt Nước có ra là từ bản thể của Nước. Như vậy Tiểu Linh Hồn đều phát xuất từ một nguồn gốc Đại Linh Hồn. Đại Đồng Bình Đẳng.

Cũng như Nhân Loại con người phát xuất từ trong Bọc Trứng Mẹ Âu Cơ. Nhân Loại Đồng Bào. Và đã nói lên nhiều cái chung. Cái chung ở đây là cái chung theo Luật Tự Nhiên. Theo Thiên Mệnh do Trời sắp xếp. Cái Chung ở đây là Chung Cội Chung Nguồn. Chung Tổ Tiên, Chung Cha Trời – Địa Mẫu. Chung vũ trụ, Chung Địa Cầu. Chung truyền thống Nhân Loại Tức là Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng. Chung nước chung non và còn nhiều chung chung khác, v.v...

Khác với cái chung do chế độ Phong Kiến Thần Giáo, Phong Kiến Vua Chúa chế độ độc tài độc trị đặc ra trói buộc Thiên Hạ về một nhóm một khối. Nhất là sự trói Thiên Hạ về một nhóm một khối theo sự Độc quyền Độc Tài Độc trị. Theo điều lệ tham vọng thống trị thiên hạ đặc ra cái chung tốm thâu của cải vật chất làm giàu cho một nhóm người. Cột trói con người vào một cái chung bị trị. Mất hết quyền Bình Đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Mà Tổ Tiên đã ban tặng cho mỗi con người. Cái chung của sự trói buộc, là cái chung của điều lệ. Đi ngược lại Thiên mệnh bản thể Linh giác tối cao của vũ trụ. Cũng tức là đi ngược lại Thiên ý của Đức Cha Trời. Nên kết cuộc thường không mấy tốt đẹp.

Chủ Nghĩa Đại Đồng Bình Đẳng là Chủ Nghĩa theo luật tự nhiên, quy luật chung tự nhiên của vũ trụ. Chủ Nghĩa Đại Đồng là Nguồn Cội của các Chủ Nghĩa. Chủ Nghĩa của sức mạnh, không có sức mạnh nào hơn.

Chủ Nghĩa Đại Đồng Bình Đẳng là Chủ Nghĩa đỉnh cao của Phật Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chủ Nghĩa của sự trường tồn và sự vĩnh cửu. Chủ Nghĩa Đại Đồng Bình Đẳng là chủ nghĩa Cội Nguồn, chủ nghĩa tối cao Thiên Đạo Đại Đạo vũ trụ.

Chủ Nghĩa Đại Đồng Bình Đẳng, là chủ nghĩa con đường mùa xuân Thuận Thiên, được Cha Trời bảo bọc dưỡng nuôi, chóng lớn chóng thành. Nên Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng Bình Đẳng, tồn tại rất lâu kéo dài qua 5 tiểu kiếp, gần trăm triệu năm mới mãn. Tiếp theo sau là Chủ Nghĩa Liên Hoa Hải Tạng ra đời.

* * *

Hết phần 1 chương 12 mời xem tiếp phần 2 chương 12 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Muốn hiểu cho thấu đáo Long Hoa Mật Tạng Kinh, phải tưởng niệm đến Cha Trời Mẹ Trời. Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu Cơ. Cũng như tưởng niệm đến Quốc Tổ Vua Hùng, thì những gì thậm thâm vi diệu trong kinh mới hiện ra.

Muốn cho thấu hiểu kinh luân

Thành tâm kính bái Âu Cơ Mẹ Trời

Muốn cho hiểu được văn từ

Thành tâm kính bái Cha Trời Long Quân

Muốn cho thông suốt Mật Kinh

Thành tâm lễ lạy anh linh Vua Hùng.

* * *
 
CHƯƠNG 12

PHẦN 2

DI TRUYỀN TÍNH


Bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Là Bản thể Độc Lập. Tự Do. Đại Đồng Bình Đẳng. Thể Tánh nầy trước sau không hề thay đổi. Khi Bản thể Linh giác tối cao vũ trụ. Chân Tánh Sanh ra Thức Tánh vũ trụ. Thời Di Truyền Tánh không thay đổi.

Có thể nói Linh giác Chân Tánh sanh ra Linh Thức Thức Tánh. Linh giác. Linh Thức Thể Tánh y nhau. Cũng như nước cùng bọt nước thể tánh như nhau. Thể tánh nước sao thể tánh bọt nước cũng như vậy.

Cũng như huyết thống Cha sao Con vậy. Hay nói một cách dễ hiểu. Đại Linh Hồn vũ trụ. Thể Tánh Độc Lập. Tự Do. Đại Đồng. Bình Đẳng. sinh ra Tiểu Linh Hồn. Thời Tiểu Linh Hồn cũng có những Đức Tánh trên. Mất tự do. Mất Độc Lập. Mất Công bằng Bình Đẳng Là con người liền thấy khổ. Có cơ hội là đấu tranh giành lại cho bằng được. Những quyền mà Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm. Hay nói một cách khác những đức tánh Độc Lập Tự Do Công Bằng Bình Đẳng từ Đại Linh Hồn vũ trụ, di truyền sang Tiểu Linh Hồn vũ trụ. Một khi nhân loại mất Độc Lập mất Tự Do mất Công Bằng Bình Đẳng. Thì nổi lên đấu tranh giành lại. Dù phải hi sinh đến thân mạng tính mạng của mình.

Vì vậy con đường đi đến sự thống nhất chung, văn minh hiện Đại. Thời không có con đường nào khác hơn. Đó là con đường Độc Lập Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Để thực hiện được con đường Độc Lập Tự Do Công Bằng Bình Đẳng, không còn con đường nào khác hơn. Là con đường Đa Nguyên Nhân Quyền Dân Chủ. Tiến lên cao hơn nữa là con đường Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ, Chủ Nghĩa Đại Đồng. Văn Hóa Cội Nguồn. Chủ Nghĩa Đại Đồng, Đại Đạo vũ trụ. Chủ nghĩa cao nhất không còn chủ nghĩa nào cao hơn nữa.

Tiến đến xã hội văn minh mà thiếu đi Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Đại Đạo vũ trụ. Thì xã hội ấy chỉ là cái xác xã hội, thiếu đi cái Hồn xã hội. Xã hội khói mây, hợp để rồi tan, tan rồi hợp, cuộc sống đảo lộn mãi. Mà giai cấp khốn khổ nhất cũng chỉ là giai cấp Nông Dân, Công Nhân. Xã hội thật sự văn minh hiện Đại là xã hội thật sự tự do, Công Bằng, Bình Đẳng.

Xã hội pháp quyền Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Chỉ đến với Nhân Loại tiến bộ trình độ Dân Trí cao hội nhập Văn Hóa Cội 1 Nguồn. Làm chủ bản thân. Làm chủ Công Lý. Làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp tất cả phục vụ cuộc sống, phục vụ Cội Nguồn. Chung trong nền Hiến Pháp Đại Đồng, Luật Pháp Đại Đồng. Đạo Pháp Đại Đạo vũ trụ.

Như chúng ta đã biết. Bản thể Linh giác Tối Cao Đại Linh Hồn vũ trụ. Thể tính thống nhất, Độc Lập, Tự Do, Đại Đồng Bình Đẳng. Thời Tiểu Linh Hồn cũng có những đức tính y như Đại Linh Hồn. Vì Nước bọt Nước cũng chỉ là một. Vì vậy Văn Hóa Cội Nguồn là kim chỉ nam nói lên cái Quyền thiêng liêng mà ai ai cũng có, không bao giờ mất đi, không bao giờ thay đổi tồn tại song song với Linh Hồn. Đời này sang đời khác, hết kiếp này sang kiếp khác. Chủ Nghĩa Đại Đồng Đa Nguyên Thiên Quyền Nhân Chủ là Chủ Nghĩa bảo vệ cái quyền mà ai ai cũng có từ Đại Linh Hồn vũ trụ duy truyền sang. Những thứ quyền được bảo vệ trong Hiến Pháp Luật Pháp, Đạo Pháp.

Những quyền cơ bản nếu nói rộng thời 8 muôn 4 nghìn điều. Nói gọn thời 36 quyền chính 72 quyền phụ. Những quyền cơ bản trong đạo luật con người. Quyền con người những quyền bất khả xâm phạm.

(XEM BỘ LONG HOA LUẬT TẠNG SẼ RÕ).

* Thiên Mệnh Quyền có 3.


1: Quyền Đại Đồng Thống Nhất.

2: Quyền Chủ Quyền Độc Lập. Không xâm phạm lẫn nhau.

3: Quyền Tự Do Công Bằng Bình Đẳng. Tôn trọng lẫn nhau.

* Nhân Quyền có 4.

1: Quyền tự do ngôn Luận.

2: Quyền Mưu cầu hạnh phúc.

3: Quyền Con Người.

4: Quyền Bổn phận làm Người.

* Xã Hội Quyền có 3.

1: Quyền Công bố Hiến pháp. Luật pháp. Đạo Pháp

2: Quyền Công Tố, Phán Xét, Phân Xử.

3: Quyền thay Trời. Thay mặt Nhân Loại hành sự.

Những quyền trên là những quyền cơ bản trong 36 quyền chính Thiên Luật vũ trụ. Thuận Thiên Luật thì tồn. Còn Nghịch Thiên Luật thì vong. Mất.

Thái Tử hiểu rõ Nhân Loại hiện nay. Trình Độ Dân trí còn quá thấp rất dễ hiểu lầm lẫn lộn giữa Tà Quyền và Chánh Quyền giữa Phi Nghĩa và Chính Nghĩa. Quyền Chính Nghĩa là thứ quyền có từ Đức Cha Trời. Trao xuống cho Nhân Loại con người. Ví như Nước có quyền gì thời trao xuống cho bọt nước những quyền ấy.

Ví dụ nước có tính gì, thì bọt nước có tính ấy. Nước có tính tự do bình đẳng, thời bọt nước cũng có tính tự do bình đẳng. Cha sao con vậy. Nước sao bọt nước vậy. Di truyền không thay đổi. Bảo vệ những thứ quyền mà Đức Cha Trời Di truyền xuống con cái của Trời, con cái của Trời tức là Nhân Loại con người. Những quyền thiêng liêng từ Cha sang con tồn tại song song với sự sống Linh Hồn con người. Không mất đi và cũng không bao giờ thay đổi.

* * *

Hết phần 2 chương 12 mời xem tiếp phần 3 chương 12 Long Hoa Mật Tạng.

* * *



CHƯƠNG 12

PHẦN 3

QUYỀN TRONG LUẬT

LUẬT TRONG QUYỀN


Thái Tử hiểu rõ trình độ dân trí hiện nay còn quá thấp. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ lại quá cao thâm, khó mà truyền bá cho dân chúng. Nhân Loại hiểu. Dạy một đường hành một nẻo hiểu lệch ý nghĩa của Đạo. Hoặc sanh tâm hủy báng, thì tai họa đại nạn không biết đâu mà lường. Nguy hại khốn khổ biết là bao.

Đừng nói chi cho nhiều với tám chữ trong Cội Nguồn: Đa Nguyên, Nhân Quyền, Dân Chủ, Tự Do. Với trình độ Dân trí hiện giờ không mấy người hiểu nổi kể cả Vương, Quan, Vua, Chúa, nói gì đến dân chúng. Cội Nguồn Nhân Quyền là gì? Vì sao lại có từ Dân Chủ. Vào thời đó không mấy ai hiểu nổi.

Thái Tử dạy rằng: Nhân Quyền. Chính là những Quyền Tạo Hóa ban cho mỗi con người, những Quyền bất khả xâm phạm. Những Quyền bất khả xâm phạm trở thành Nhân Luật xã hội.

Thái Tử nói: Quyền tự do đi đôi với luật tự do. Quyền Con Người Nhân Quyền. Cũng như Quyền Tự Do Mưu Cầu Hạnh Phúc không phải tới bây giờ mới có. Mà có từ khi Nhân Loại ra đời. Những Quyền mà Cha Trời đã dạy cho con cái. Thiên Ý nằm trong Thiên Luật vũ trụ. Những ai Thấu hiểu Cội Nguồn thì hiểu rõ Thiên Luật vũ trụ.

Thiên Luật vũ trụ cũng chính là Thiên Ý Cha Trời. Thiên Ý Cha Trời là những định Luật vũ trụ trước sao sau vậy không gì thay đổi dù trải qua hằng hà sa số kiếp. Thiên Ý Cha Trời chính là phát Nguồn từ Bản Thể Cha Trời Luật Tạng Cội Nguồn vũ trụ. Thái Tử là Đấng Cứu Thế. Đấng Toàn Năng Toàn Giác không vì trình độ mê muội lạc hậu thấp kém của dân chúng mà chịu thua về Trời. Nên Thái Tử lập ra phương nhiều phương tiện. Tùy căn bệnh con người, căn bệnh xã hội, căn bệnh thời cuộc mà cắt thuốc chữa trị.

Để phù hợp trình độ, căn bệnh, lạc hậu xã hội, cũng như sự ngu si mê muội con người Thái Tử truyền Luật trước không truyền quyền khi con người hiểu luật tới đâu thì quyền được nâng lên tới đó. Ở vào thời kỳ này tình thế chỉ phù hợp Truyền Thiên Ấn. Lập ra Nhà Nước pháp Quyền. Luật là Thầy. Đạo là Cha. Hiến pháp là Nhà chung cho toàn xã hội. Vua cũng Quan. Chỉ là Đấng Tôi Trung Chí Hiếu. Bảo vệ Hiến pháp – Luật pháp – Đạo pháp. Đầu tàu dẫn dắt Thiên hạ Đồng Bào đi theo. Ở vào thời ấy Thiên Ấn chỉ truyền xuống cho hàng Quốc Vương kế vị. Còn hàng Vương, Quan, chỉ nghe những gì truyền lại mà thôi. Không thể nào hiểu rõ sự đúng sai trong lời truyền dạy ấy. Sự truyền khẩu kéo dài hàng trăm năm, cho đến cả nghìn năm dẫn đến tam sao thất bổn. Thiên Ấn Cội Nguồn dần dần biến mất. Thời đại Hùng Vương theo đó cũng chấm dứt luôn. Bách Việt Văn Lang tan rã. Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang rơi vào Phương Bắc, chỉ còn lại Nam Văn Lang. (Xem Văn Lang chiến sự 3 chiến sự 4 sẽ nói rõ hơn).

* * *

Hết phần 3 chương 12 mời xem tiếp phần 4 chương 12 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Những bí mật trải qua hàng nghìn năm lần lần theo kinh hiện ra, những gì mà dân tộc Việt Nam cần biết. Để rồi đi theo bước Cha Ông. Xây dựng lại một nước Việt Nam giàu về vật chất mạnh về tinh thần. Dân Giàu Nước Mạnh. Xã Hội Công Bằng, Dân Chủ, Văn Minh. Rạng rỡ khắp năm châu.

* * *



CHƯƠNG 12

PHẦN 4

ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI


Sau khi Thành Đạo hội nhập vào Cội Nguồn. Những đường hướng được vạch ra thông suốt. Thái Tử liền đằng vân trở về khu vườn cấm. Mở màn cho cuộc Mưa Pháp, giáo hóa độ sanh.

Đây nói về Cúc Phương, từ khi thấy Thái Tử xuất hiện. Đằng vân bay lên không trung biến mất. Cúc Phương vô cùng kinh dị nghĩ Thái Tử trở thành Thần Tiên rồi. Ngày nào Cúc Phương cũng đem đồ ăn thức uống đến cho Thái Tử, trong cảnh mưa to gió lớn. Nhưng ngày nào cũng vậy Thái Tử đều vắng bóng. Sấm chớp ầm ầm liên miên bất tận. Tuy ở rất xa nhưng Cúc Phương tưởng chừng như Trời Đất sắp sụp đổ đến nơi. Cúc Phương nghe nói Nước tràn về ngập xóm ngập Làng. Và hôm nay là ngày thứ 50. Tuy mưa to gió lớn đã dứt. Suốt 49 ngày đêm không thấy ánh sáng Mặt Trời hay trăng sao gì cả. Chỉ nghe thấy sấm chớp ầm ầm mưa to gió lớn làm khiếp đảm dân chúng Đồng Bào khắp các Châu Lục.

Nhìn ánh Bình Minh rực rỡ. Chim chóc vui đùa bay nhảy líu lo. Cây cối như muốn đâm chồi nảy lộc. Bầu Trời trong xanh. Nhìn núi ôm mây, nhìn cây ôm gió. Non sông đất nước hôm nay sao mà đẹp thế ánh bình minh vàng hồng đem hơi ấm về cho trái đất quê hương. Sưởi ấm hàng vạn con tim qua bao ngày âm u lạnh giá.

Cúc Phương với bao ý nghĩ miên man. Tay xách giỏ đồ ăn tiến về Bảo tháp nơi ở của Thái Tử. Bỗng Cúc Phương nhìn thấy Thái Tử. Cúc Phương hầu như chết lặng trước sự bất ngờ này. Cúc Phương quá vui mừng quên đi mình là hầu Nữ, chạy tới nắm tay Thái Tử hỏi han như cách đây 8 – 9 năm về trước khi Thái Tử còn nhỏ. Thái Tử luôn luôn coi Cúc Phương như người Thân ruột thịt của mình.

Cúc Phương nhìn Thái Tử không cầm được giọt nước mắt hỏi:

Thái Tử vẫn khỏe mạnh chứ.

Thái Tử chỉ cười gục đầu.

Đến lúc này Cúc Phương mới thấy mình quá vô lễ vội thả bàn tay nắm lấy tay Thái Tử ra, quỳ xuống sợ hãi thưa:

Hầu Nữ thật đáng chết, hầu nữ thật đáng chết, xin Thái Tử quở phạt nặng.

Thái Tử nói:

Ta mà phạt Cúc Phương ư. Chưa kể lúc ta còn nhỏ, Cúc Phương cực khổ chăm sóc cho ta biết chừng nào. Huống chi sáu năm ròng rã Cúc Phương lại khổ vì ta. Với công lao ấy. Cúc Phương được hưởng phước báo ba họ đều được giàu sang. Còn riêng Cúc Phương sau khi mãn kiếp. Hồn sanh thiên giới hưởng phước. Thân Nữ sẽ chuyển thành Thân Nam làm Vua ở cõi Trời.

Lời thọ ký của Thái Tử vừa dứt. Cúc Phương trí huệ bỗng tăng lên vùn vụt liền chứng quả Thánh, thông hiểu Đạo Luật, vào ngôi vị Thánh Hiền. Cúc Phương lạy tạ Thái Tử trở lại hoàng cung đem lời Thái Tử căn dặn nói lại cho Quốc Vương và Vương Phi nghe.

Nói về Quốc Vương Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Thần Long Nữ, sáu năm xa cách Thái Tử, thương nhớ con không gì diễn tả cho hết. Nhưng vì Quốc Gia Đại Sự, vì tương lai của Nước Xích Quỉ. Mà Mẹ con, Cha con phải đành xa cách lẩn nhau. Biết rằng từ Hoàng Cung đến khu rừng cấm không xa lắm. Nhưng vì sự tịnh tu của Thái Tử hết sức nghiêm ngặt có sự yêu cầu chặt chẽ, gắt gao, đối với những qui định đã đề ra. Nên tất cả mọi tình cảm đều gạt bỏ ra ngoài. Chỉ cầu mong cho Thái Tử mau tìm ra con đường cứu thế. Văn Hóa Cội Nguồn, Đại Đạo vũ trụ. Không đánh mà giặc cũng phải đầu hàng. Hàng phục Bách Tộc mà không cần động đến gươm đao giáo mác. Đây quả là điều khó tin. Nhưng Kinh Dương Vương nghĩ rằng Thái Tử sẽ làm được.

Theo Kinh Dương Vương nghĩ. Thái Tử đi tìm Văn Hóa Cội Nguồn vũ trụ cứu thế độ nhân. Đây là việc tìm kiếm đầy mơ hồ rất khó khăn có khi hết đời cũng không tìm ra được. Nhưng vì Thái Tử đã quyết nên không thể ngăn cản. Chỉ cần một chi phối nhỏ lúc vận hành Chân Khí, cũng sẽ đưa Thái Tử đến chỗ mất mạng. Đạo quả không thành còn mất luôn người con duy nhất nối nghiệp Đế Vương Cha Ông. Kinh Dương Vương luôn tin tưởng bản lĩnh tài năng Thái Tử, kiên nhẫn chờ đợi. Không bao giờ làm kinh động đến Thái Tử và sự chờ đợi đó cũng đã đến.

Với bộ dạng phấn khởi hấp tấp đáng yêu của hầu Nữ Cúc Phương. Cô ấp a ấp úm nói tiếng được tiếng mất, làm cho Vương Phi phải phì cười: Hôm nay ngươi làm sao thế Cúc Phương. Vương Phi nói cà rỡn hay là ngươi đã gặp Thái Tử rồi. Không ngờ Cúc Phương lại gật đầu. Cái gật đầu của Cúc Phương.

Vương Phi đang ngồi đứng phất dậy hỏi:

Ngươi nói thiệt không?

Đến lúc này Cúc Phương đã lấy lại được sự bình tỉnh:

Thưa Vương Phi hầu Nữ không những gặp được Thái Tử. Mà còn được nghe Thái Tử dạy bảo nhiều điều.

Vương Phi hỏi:

Thái Tử dặn bảo những gì?

Thưa Vương Phi:

Thái Tử dặn bảo hầu Nữ rằng. Hãy nói Vua Cha thông báo rộng rãi trong nước ngoài nước biết là ta đã Thành Đạo. Và ta rất muốn gặp các Quan Đại Thần, Vua Cha cùng Mẫu Hậu.

Nghe được lời nầy Vương Phi Thần Long Nữ, nước mắt cứ tuôn trào lẩm bẩm sự chờ đợi của ta đã đến. Sáu năm rồi, sáu năm xa cách, và lác nữa đây ta sẽ gặp lại con.

Nói về Quốc Vương Kinh Dương cùng các quan Đại Thần. Đang bàn kế sách đánh đuổi Giặc Hồ đang nổi dạy đánh phá biên cương hết sức hung dữ. Tướng của ta là Hầu Dung đã tử nạn. Em Hầu Dung là Hầu Hòa lên thay. Cấp báo về Cung chi viện quân binh tiêu diệt bọn chúng. Nghe đâu Hồ Nhất Quỉ, Hồ Nhị Quỉ, Hồ Tam Quỉ thần thông pháp thuật kinh người. Nghe đến giặc Hồ thì ai ai cũng đều khiếp sợ. Tình thế non sông Tổ quốc mỗi ngày một thêm bất ổn, nhất là tình hình ở biên giới. Kinh Dương Vương triệu tập cuộc họp bất thường. Cuộc họp vô cùng quan trọng nên đủ mặt bá quan văn võ. Trong lúc Quốc Vương cùng các quan đang bàn cách đối phó với ngoại xâm, nhiều tình huống phức tạp, về lâu về dài, một con Mãnh Hổ dù mạnh đến đâu cũng không thể đánh bại bầy Chó Sói được. Nhất là đàn Chó Sói nổi tiếng hung dữ.

Nước Xích Quỷ là một đất nước béo bở, không những về Ngư Nghiệp mà cả về Nông Nghiệp. Giàu có về tài nguyên khoáng sản Cũng như vàng, bạc, đồng, thau, ngọc ngà châu báu không có một đất nước nào sánh kịp theo kịp. Một đất nước béo bở như thế. Thì ai chẳng muốn là của riêng mình. Vì thế bày cáo sói ở bên kia biên giới lúc nào cũng mài nanh, mài móng vuốt, chờ cơ hội là xông vào xé xác. Có những đàn Cáo Sói vì quá thèm khát miếng mồi béo bở, nên đã đem quân xâm lấn biên cương. Nhưng chúng nào có hiểu một con mãnh hổ khôn, không bao giờ hành sự lỗ mãng, nên Kinh Dương Vương, cùng bá quan văn võ bàn tính thật kĩ trước khi hành sự.

Bỗng tiếng chân người dồn dập cùng tiếng nói cười vang động dậy lên. Chuyện gì thế, chuyện gì thế. Nhưng nào có ai trả lời được. Thời bỗng nhiên hương thơm ngào ngạt lan tỏa đến cung thành. Không phải hương thơm từ người phụ Nữ. Mà hương thơm của Mùa Xuân muôn hoa đua nở. Mùi hương này Kinh Dương Vương nghe rất quen, à phải rồi mùi hương này từ khu rừng cấm sao chúng nó bay đến đây được. Tiếng à của Kinh Dương Vương và lời xác nhận của Kinh Dương Vương. Làm cho bá quan văn võ càng thêm ngơ ngác. Hương thơm từ khu vườn cấm lan tỏa đến đây vương quan không lấy gì làm tin lắm, nhưng không ai dám cải vì Quốc Vương đã nói thế. Trong khi các Vương Quan còn đang ngơ ngác cho mùi hương lan tỏa bay đến. Cùng lúc ấy với dáng dấp vội vã Vương Phi Nương Nương cùng một số cung phi mỹ nữ xuất hiện, làm cho hội trường sôi động hẳn lên.

Theo luật lệ của Nước Xích Quỷ. Trong lúc bàn cơ mật Quốc gia. Không phận sự miễn vào. Nhất là đàn bà con gái không được đến. Hoặc nơi tôn nghiêm thờ tự các đời kế vị Quốc Vương. Trừ Hoàng Hậu, Vương Phi thì không ai được vào. Đó là Luật Lệ có ra từ thời Tiên Đế Long Lang Sùng Lãm. Nói về Vương Phi Mẫu Hậu Nương Nương được tin con Đắc Đạo chuẩn bị hồi cung thời còn chuyện hệ trọng nào hơn nữa. Bằng làm náo động cả hoàng cung, náo động cuộc hội họp bí mật Quốc Gia vô cùng hệ trọng. Khi Long Lang Sùng Lãm lên ngôi Quốc Vương. Hoàng Đế. Có một số cơ mật Quốc gia, bị giặc khai thác mua chuộc thông tin từ phụ nữ. Nên Quốc Vương Sùng Lãm ban hành lệnh cấm. Đàn bà con gái không được tham gia hội họp cơ mật Quốc Gia. Kể cả nơi thờ tự tôn nghiêm thờ tự các đời Tiên Đế Kế vị Quốc Vương. Khi Long Lang Sùng Lãm lên ngôi Quốc Vương Hoàng Đế. Thường có các giống Chim quí như Chim Hồng Lạc bay đến đậu khắp kinh thành. Non Sông Đất Nước yên bình, âu ca thịnh trị, Thái Bình an lạc. Long Lang lên ngôi Quốc Vương lấy niên hiệu là Kinh Dương Vương. Đời thứ nhất. Từ đó về sau cứ mỗi lần giống Chim Hồng Lạc xuất hiện, là dân chúng được mùa trúng lớn và cho người vẽ giống Chim này ở các nơi thờ tự. Đến đời Lộc Lang tức là Kinh Dương Vương đời cuối. Chính là vị Kinh Dương Vương đương thời. Có bổ sung thêm vào điều luật cho phép Vương Phi. Hoàng Hậu. Tham gia vào cơ mật Quốc Sự. Cũng như có quyền hành lễ nơi thờ tự các thời Tiên Đế. Các quan về dự họp thấy Chim Hồng Lạc bay đậu khắp cung thành, lại thấy Mây ngũ sắc xuất hiện càng lúc càng nhiều. Kinh Dương Vương cùng bá quan văn võ lấy làm mừng rỡ. Điềm lành đã xuất hiện nhất định đánh tan quân giặc xâm lấn biên cương. Đang lúc hội họp bàn kế sách đánh giặc bỗng thấy mùi hương muôn hoa đua nở xuất hiện, hương thơm ngào ngạt. Khi hít vào cảm thấy sức khỏe tăng lên, mọi sự mỏi mệt đều biến mất. Thật là kì diệu hàng nghìn năm chưa thấy một lần. Vua Quan ở thời Kinh Dương Vương cũng như các thời Tiên Đế. Bao giờ cũng đặc niềm tin vào Trời Đất. Ở Điện thờ Thần Mặt Trời cũng như thờ Trời, lúc nào cũng Hoa Quả trầm hương nghi ngút.

Nói về Kinh Dương Vương. Thấy Vương Phi cùng cung phi Hầu Nữ xuất hiện rầm rộ. Thời liên tưởng nghĩ ngay đến Thái Tử. Không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Vương Phi đến bên Kinh Dương Vương nói nhỏ một hồi. Chỉ thấy Kinh Dương Vương sắc mặt tươi hẳn lên vì mừng rỡ. Hỏi lại với vẻ mặt mừng vui sung sướng.

Kinh Dương Vương nói:

Có thiệt không?

Vương Phi quay sang Cúc Phương ngươi nói:

Ngươi nói lại cho Quốc Vương rõ lời dặn bảo của Thái Tử đi.

Cúc Phương vâng dạ quì xuống tâu: Muôn tâu Quốc Vương Thái Tử dặn Hầu Nữ rằng thế là Cúc Phương kể rõ đầu đuôi sự việc tai nghe mắt thấy cùng lời dặn bảo của Thái Tử cho các quan văn võ tướng cùng Đức Vua Kinh Dương nghe. Kinh Dương nghe tới đâu thì nước mắt rơi tới đó, các quan văn tướng võ cũng vậy. Tức thời từ cuộc họp chống ngoại xâm, chuyển sang cuộc họp làm theo lời dặn của Thái Tử. Chuyện giặc ngoại xâm gác lại một bên, vì ai cũng hiểu Thái Tử là con Trời đầu thai xuống thế. Thái Tử đã tìm ra phương pháp dẹp loạn ngoại xâm và Thái Tử đã thành công, thời còn chuyện gì vui sướng hơn nữa. Nhất là vị Quốc Sư đa tài lúc nào cũng ca ngợi Thái Tử. Vị Quốc Sư Thục Lục đa tài nổi tiếng khắp thiên hạ. Có một số nước muốn xâm lược nhưng kiêng dè vị Quốc Sư lớn tuổi già nua nầy và ngoại bang chỉ còn chờ thêm vài năm nữa Thục Lục già nua sức yếu là họ tấn công sang bằng nước Xích Quỷ. Thục Lục mừng rỡ khi nghe Thái Tử đã tìm ra con đường chống giặc hàng phục các thế lực Thù địch mà không cần động đến gươm đao giáo mác.

Quốc Sư Thục Lục chắp tay cung Kính tâu với Quốc Vương rằng:

Chúc mừng Hồng phúc Quốc Vương bệ hạ. Lớn hơn Đại Ngàn biển cả. Thì ngoại xâm không đánh cũng tự rút lui. Thái Tử là bậc con Trời sanh xuống chốn nhân gian. Không có những gì mà Thái Tử làm không được. Có lẽ Thái Tử sắp chuyển Thiên Hạ bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn văn minh hơn nữa.

Kinh Dương Vương nở nụ cười nói với các quan:

Lớp sau phải hơn lớp trước đó mới là cái phúc của nước nhà. Có lẽ chúng ta cũng cần đổi mới tiến lên mở đường cho thời đại mới. Như cây xanh Đại Thụ vươn mình lớn mãi đơm hoa kết trái.

Cuộc họp chống ngoại xâm chuyển thành cuộc họp làm theo lời dặn của Thái Tử. Thế là thông tin nhanh chóng được lan truyền đến khắp hang cùng ngõ hẻm truyền rằng. Thái Tử là Đấng Con Trời Đầu Thai xuống Thế. Thái Tử là Đấng Cứu Thế thay Trời hành Đạo. Thần Thông Quảng Đại vô biên. Nếu không tin thì hãy đến Kinh Thành sẽ rõ. Lời truyền tụng ấy dần dần nhanh chóng lan qua các Nước lân cận. Lan khắp 62 giáo phái. Các giáo phái chân chính thì vui mừng, các giáo phái ác Đạo thì khiếp đảm. Họ thi nhau lặn lội đường xa kéo về Nam Kinh Xích Quỷ càng ngày càng đông.

* * *

Hết phần 4 chương 12 mời xem tiếp phần 5 chương 12 Long Hoa Mật Tạng.

* * *
 
CHƯƠNG 12

PHẦN 5

NHƠN ĐẠO THÀNH

THIÊN ĐẠO CŨNG LÀ ĐÂY


Các quan có ý muốn theo Quốc Vương, Vương Phi. Đến khu rừng cấm ra mắt Thái Tử. Nhưng vì Kinh Dương Vương chưa có lời cho phép. Các quan văn võ lấy làm buồn lắm. Kinh Dương Vương là người tinh ý thấy bá quan văn võ lòng buồn rười rượi.

Quốc Vương nói:

Các quan ai muốn đi thăm Thái Tử thì đi với Trẫm.

Các quan văn, võ nghe lời cho phép ấy thì còn gì vui sướng hơn. Lòng tò mò muốn biết 6 năm tịnh tu Thái Tử tìm ra được những gì. Vị Quốc Vương tương lai của họ.

Nói về Thái Tử Hùng Lan sau khi dặn dò Cúc Phương. Thái Tử đi dạo khu vườn cấm chuẩn bị cho cuộc họp khai hội Long Vân chốn nhân gian. Truyền chỉ lời dạy của Đức Cha Trời. Thái Tử dạo xong một vòng rồi trở về Bảo Tháp. Ngồi xếp bằng nhập định dùng thiên nhãn soi xét nơi hoàng cung. Thấy cảnh Cha Mẹ thương con như vậy hết sức cảm động buôn tiếng thở dài. Tình Phụ Tử thiêng liêng, không có lời nào diễn tả cho hết được. Lòng Cha Mẹ thương con như biển cả núi non.

Ta tuy là Đấng Chí Tôn Thiên Đế anh cả của Phật Thánh Tiên Thần Chúa. Lại là con cả của Đức Cha Trời. Long Hoa Cửu Huyền. Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Hai Đấng tối cao vũ trụ Tổ Tiên hiện ra. Nhưng hiện nay ở chốn nhân gian ta là Thái Tử. Con của Quốc Vương Kinh Dương Vương và Vương Phi Thần Long Nữ. Nên ta phải giữ tròn cái Đạo Cha con. Nhơn Luân Hiếu Nghĩa. Để cho Thiên Hạ lấy đó làm gương noi theo gìn giữ Đạo Hiếu. Cha Mẹ phụ Thân, phụ Mẫu là Ngôi trời thứ 2. Bất hiếu với phụ Thân phụ Mẫu. Đồng với nghĩa là bất hiếu với Trời. Một trọng tội khó mà dung tha. Và ta cũng thế phạm tội Bất hiếu thì cũng bị sa đọa như thường. Đạo hiếu là truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại con người. Dù ở Địa Ngục, Âm Phủ, Trần Gian, Thiên Đàng. Đạo Hiếu vẫn đứng hàng đầu như nhau. Muốn Thành Thiên Đạo. Thì Nhơn Đạo vẫn là cái gốc. Mất cái gốc Nhơn Đạo thời Thiên Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Phật Đạo. Không có cơ sở để thành vì vậy Nhơn Đạo thành rồi thì Thiên Đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo, Phật Đạo cũng chính là đây.

Tiếng ngựa, xe, rầm rầm rộ rộ mỗi lúc một gần. Thái Tử hiểu rõ Cha Mẹ cùng bá quan văn võ sắp đến. Đoàn xe, ngựa, gồm mấy trăm người dần dần xuất hiện. Để tỏ lòng hiếu thảo Thái Tử đã quì sẵn tận cổng ngõ đón mừng Cha Mẹ. Kinh Dương Vương cùng các Quan từ xa xa thấy vầng hào quang kỳ lạ tỏa sáng từ cổng ngõ nơi bảo tháp. Vừa đến nơi các quan thấy Thái Tử. Đang quì trước ngõ. Đón mừng Cha Mẹ. Nhìn thấy cảnh Thái Tử hiếu thuận như vậy, bá quan văn võ ai nấy cũng cảm động rơi nước mắt. Đức Vua và Vương Phi nhìn cảnh người con yêu quí của mình hiếu thuận như vậy, thời cầm lòng không được nước mắt tuôn trào hối hả bước đến nắm lấy tay Thái Tử nói khổ cho con quá. Đở Thái Tử đứng dậy Kinh Dương Vương cùng Thần Long Nữ mừng khôn xiết nhìn Thái oai vệ như Thiên Tiên giáng Thế. Thấy Cha Mẹ thương yêu mình như vậy Thái Tử cầm lòng chẳng đặng nên bùi ngùi rơi lệ. Có lẽ vì hào quang, vì dáng vẻ uy nghi, vì sự hiếu thuận. Cũng như sự Lễ độ, khiêm cung của Thái Tử. Đã làm cho các quan sửng sốt. Các Quan giờ đây mới biết có phúc vì gặp phải một Đấng anh Linh phi thường, có một không hai trên đời. Ai nấy cũng thi nhau thành kính, sùng kính. Đồng loạt xuống xe, xuống ngựa quì gối khom mình hành lễ. Chúng Thần Tham Kiến Thái Tử. Rồi quì mãi không đứng dậy Kinh Dương Vương thấy thế nói với các Quan. Các khanh miễn lễ đứng dậy đi. Các Quan đồng thanh nói: Chúng Thần đứng dậy không được. Dù biết rằng đã cố hết sức mình. Trong số các quan một nửa là quan võ, dở nổi nghìn cân. Thế mà bất lực trước một sức mạnh siêu nhiên vô hình. Kinh Dương Vương lấy làm lạ, khi thấy các quan có người mặt nhăn mày nhéo, có người sợ hãi kinh hoàng. Đức Vua Kinh Dương Vương như chợt hiểu ra, Thái Tử đã biểu diễn thần công ra mắt các Quan, ra mắt Cha Mẹ, minh chứng cho sự thành công Đắc Đạo của mình. Kinh Dương Vương nói với Thái Tử con để cho các Quan đứng dậy đi. Tức thời Thái Tử chuyển sang Thần Lực nâng đỡ các Quan dậy. Các Quan có muốn quì cũng không thể nào quì được. Có một số Quan không tin điều này xảy ra trước mắt, nên cố gắng ráng sức trì níu quì mãi. Nhưng không thể nào làm được. Bị một lực vô hình nâng đỡ đứng lên. Quốc Sư là một trong số người trì níu ấy để thử tài Thái Tử cố sức không đứng dậy.

Thái Tử hỏi:

Quốc Sư, Quốc Sư thấy thế nào.

Nghe Thái Tử hỏi Quốc Sư giật mình. Quốc Sư đến trước mặt hành lễ thưa:

Chúc mừng Thái Tử, Thái Tử quả thật đã tìm ra con đường cứu thế rồi. Mừng thay cho Nước Xích Quỷ ta.

Các quan cũng đều đồng thanh nói như thế. Các Quan vừa chúc tụng xong, thì lạ thay Hào quang phát ra từ Thái Tử biến đâu mất. Vương Phi Thần Long Nữ từ đầu đến giờ cứ nhìn mãi hào quang ngũ sắc năm màu của Thái Tử đẹp làm sao bỗng dưng hào quang biến mất.

Vương Phi lấy làm tiếc hỏi Thái tử:

Hào quang bao bọc xung quanh con trông thật đẹp mắt lắm, sao bỗng dưng biến đi đâu mất.

Kinh Dương Vương cùng các quan cũng nghĩ như thế.

Thái Tử nói:

Thưa Phụ Hoàng cùng Mẫu Hậu hào quang ấy không phải chỉ mình con có đâu, ở cõi thiên đàng chư Thiên đều có hào quang đẹp mắt như vậy. Nhất là những vị đã siêu sanh về Trời xác thể Kim Thân. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Kim thân phóng ra hào quang rực rỡ theo ý muốn của tâm lực chính mình. Chư Thiên vốn cũng là người phàm, hành thiện sanh về Thiên giới sống trong giàu sang, tự do an lạc.

Thái Tử vừa nói xong. Th toàn thân Thái Tử phát ra muôn Đạo hào quang rực rỡ gấp trăm nghìn lần hào quang lúc nảy trông đẹp mắt vô cùng. Bá quan văn võ cung phi mỹ Nữ, Kinh Dương Vương cùng Vương Phi. Tất cả đều say sưa để nhìn. Bỗng hào quang xuyên suốt không gian vũ trụ rồi từ từ trong suốt. Từ Địa Ngục, Trần Gian, Thiên Đàng, ba cõi thông suốt liên quan với nhau. Những người có mặt trong lúc nầy, nương theo hào quang trong suốt của Thái Tử. Thấy rõ sự sống nơi cõi Âm Phủ, những gì khốn khổ nơi địa ngục cũng đã hiện ra.

Những kẻ trung với Ma thì thành Ma. Những kẻ trung với Quỉ thì thành Quỉ. Những kẻ trung thành đi theo kẻ ác, kết quả là cả bè phái thi nhau xuống Địa Ngục chịu những cực hình khủng khiếp. Như bị lửa đốt, giao đâm, Kiếm chém, tên bắn. Nấu dầu xẻ thịt, đau đớn, đói khát khủng khiếp.

Những kẻ thật sự trung với Nước hiếu với Dân, bảo vệ Đạo Pháp Chính Nghĩa, cứu dân thoát cảnh đói nghèo, thoát đời bệnh tật, dạy người làm lành. Trung theo lẽ thiện. Trung theo lời dạy của Đức Cha Trời, lên ngôi vị Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Làm chủ vũ trụ giang san mà Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập ra. Sống trong Châu Báu ngọc ngà, lầu đài cung Điện nguy nga tráng lệ hơn cõi trần gian muôn vạn lần, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, tất cả đều theo ý tưởng biến hiện ra.

Thiện – Ác đều theo luật nhân quả, gieo giống gì trổ ra giống ấy. Gieo ác xuống Địa Ngục, âm phủ. Gieo Thiện lên thiên đàng Cực Lạc. Cũng một lòng trung mà kẻ lên Tiên, lên Phật, lên Thánh. Kẻ xuống Địa Ngục thành Quỉ, thành Yêu, thành Tinh, thành Ma. Vì lòng trung đặt không đúng chỗ. Anh Hùng Lạc Đạo đem lòng Trung phục vụ cho cái ác. Tôn thờ phi nghĩa ác đạo.

Kinh Dương Vương. Cùng Bá Quan văn võ buôn tiếng thở dài. Đúng là anh hùng lạc Đạo hết mong về Trời. Ai sanh ra cũng có lòng Trung Hiếu dù ít hay nhiều. Nhưng lòng Trung Hiếu sai đường lạc Đạo, thì uổng lắm thay. Bá quan văn võ. Chứng kiến cảnh kỳ diệu nầy hết sức vui mừng.

Các Quan chắp tay hướng về Thái Tử nói:

Nay chúng Thần như con ếch rời khỏi đáy giếng. Thấy được Trời cao Đất rộng là gì. Như người mù vừa được sáng mắt. Chúng Thần Nguyện đem lòng Trung Hiếu đời đời theo phò Văn Hóa Cội Nguồn Đạo Pháp Chính Nghĩa.

Thái Tử nghe Bá Quan văn võ đã phát nguyện. Liền thu hào quang trí huệ chiếu xuống đỉnh đầu những người có mặt thọ ký quả vị. Tức thời tùy theo lòng trung hiếu lớn hay nhỏ thành tựu vô lượng trí huệ công đức. Chứng Thánh quả. Tiên quả, Phật quả. Riêng Quốc Vương Kinh Dương Vương cùng Vương Phi Thần Long Nữ. Khai mở chân tánh. Hiển Thánh tại chỗ hào quang trí huệ tỏa ra.

Các quan thấy vậy đồng quì lạy chúc tụng rằng:

Chúng Thần nguyện đời đời kiếp kiếp theo phò Thánh Thượng cùng Thánh Mẫu.

* * *

Hết phần 5 chương 12 mời xem tiếp phần 1 chương 13 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Là Bộ kinh tối thượng thừa theo thời xưa thời chỉ truyền xuống người kế vị. Nhưng thời nay đã khác Long Hoa Mật Tạng Kinh không của riêng ai mà là của chung toàn nhân loại. Những ai có duyên thời làm chủ Long Hoa Mật Tạng. Những người trì kinh Mật Tạng, giảng giải kinh Mật Tạng là những Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đầu thai xuống trần cứu khổ nhân loại, lập công trong Văn Hóa Cội nguồn, lên ngôi Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ. (Xem Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa sẽ nói rõ hơn). Những ai gặp được những người nầy thành tâm lễ bái cúng dường ca ngợi công đức. Thì muôn vạn kiếp sau giàu sang phú quý thuộc hàng bật nhất. Cũng như gia đạo bình yên, họa lớn biến thành họa nhỏ tai qua nạn khỏi.

Chí Tôn đã xuống cõi trần

Lo gì chẳng đặng dự phần công lao

Lập công ra sức cứu dân

Hồn Linh chuyển hóa siêu sanh thiên đàng

Long Hoa Mật Tạng giữ gìn

Sớm hôm tu học đăng trình cao bay

Việt Nam con cháu Rồng Tiên

Theo chân Quốc Tổ làm nên nghiệp trời

Văn minh tột đỉnh cao vời

Việt Nam đất Việt sáng ngời muôn năm.

* * *
 
CHƯƠNG 13

PHẦN 1

LONG THẦN HỘ PHÁP


Từ đầu đến cuối Bá Quan văn võ đã chứng kiến một sự việc hi hữu hiếm thấy trong đời chưa nghe ai kể chưa nghe ai nói hàng nghìn nghìn năm chưa thấy bao giờ. Các Quan văn võ lại chứng kiến Quốc Vương, Vương Phi hiển Thánh, hào quang phát ra từ Đỉnh Đầu. Đồng quì xuống chúc tụng ca ngợi Quốc Vương, Vương Phi:

Thánh Hoàng vạn tuế. Thánh Mẫu vạn tuế.

Quốc Vương Kinh Dương Vương phất tay nói:

Các khanh hãy đứng dậy bình thân miễn lễ.

Các Quan văn võ vừa đứng dậy. Thì không rõ tự bao giờ. Một tốp người đã đứng đó sát một bên các Quan văn võ. Người nào người nấy, tướng Mạo quái dị khác thường, làm cho các quan văn võ giật cả mình.

Số người quái dị nầy đồng chắp tay hướng về Quốc Vương và Vương Phi hành lễ. Rồi quay sang Thái Tử quì lạy nói:

Chúng Thần là Thiên Thần Hộ Pháp, xin ra mắt Chí Tôn Điện Hạ Thái Tử.

Thái Tử nói:

Miễn lễ.

Quốc Vương Kinh Dương Vương hỏi:

Các Thần từ đâu tới.

Các Thiên Thần đáp:

Chúng Thần là Thiên Thần Hộ Pháp, ở khắp vũ trụ xuống trần từ lúc Chí Tôn đầu thai xuống thế. Chúng Thần luôn luôn ở bên mình Thánh Hoàng bệ hạ, luôn luôn ở bên mình Thánh Mẫu Nương Nương. Lúc nào cũng phò trì Chí Tôn Điện Hạ Thái Tử. Nhưng chúng Thần ẩn thân không lộ diện, vì sợ lộ huyền cơ. Chúng Thần là Thiên Thần Hộ Pháp. Bảo hộ người Chân Chính, Chân Tu. Vì Chí Tôn cho phép, nên chúng Thần mới hiện thân ra. Chúc phúc Thánh Hoàng Bệ Hạ, Thánh Mẫu Nương Nương. Công lao hộ pháp của chúng Thần nay đã viên mãn quả Thánh đã thành.

Nói xong các Thiên Thần Thiên Long hộ pháp liền hiện tướng phước báo. Thân tướng cao lớn uy nghi xinh đẹp lạ thường, hào quang sáng chóa, rực rỡ cả một khung trời. Thiên Thần chắp tay đảnh lễ Đức Chí Tôn rồi biến mất.

Các quan triều đình chứng kiến cảnh hi hữu nầy liền phát tâm bảo hộ chánh pháp, tức thời ai nấy trí huệ tăng lên gấp chục lần minh mẫn khác thường.

Đến lúc này Quốc Sư mới lên tiếng:

Xin mời Thánh Hoàng Bệ Hạ, Thánh Mẫu Nương Nương, Chí Tôn Thái Tử Điện Hạ hồi cung.

Thế là đoàn người hồi cung lên đường với bao niềm hân hoan vô bờ bến. Không thể nào diễn tả cho hết được.

* * *

Hết phần 1 chương 13 mời xem tiếp phần 2 chương 13 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Kinh Văn Long Hoa Mật Tạng là Kinh Văn rất linh thiên, chỉ cần hủy báng một câu một chữ thì không tránh khỏi tai họa giáng xuống. Quốc Tổ Hùng Vương là chủ anh linh Hồn Thiên Dân Tộc hơn năm nghìn năm Văn Hiến. Hồn Thiên Dân Tộc đông vô số vô biên không thể tính đếm cho hết được. Từ khi lập nước Văn Lang đến bây giờ trải qua năm nghìn năm. Nhà nước Văn Lang vẫn tồn tại trong thế giới Vô Hình. Những Vương, Quan anh linh chưa về Trời vẫn thống lãnh cai quản Hồn Thiêng dân tộc tới bây giờ. Hữu hình trần gian bao thời đại thay đổi, hết triều đại nầy đến triều đại khác, hết chế độ nầy đến chế độc khác nhưng nhà nước Văn Lang ở cõi Vô Hình không gì thay đổi. Chế độ Cộng Sản, Quốc Gia chỉ ở cõi đời mà thôi. Khi chết đi linh hồn Cộng Sản, Quốc Gia nhập vào Hồn Thiên Dân Tộc, dưới sự cai quản điều hành Nhà Nước Vô Hình Văn Lang. Nhà Nước Vô Hình Văn Lang đang điều khiển Hồn Thiêng Dân Tộc hằng hà sa số bảo hộ Kinh Luân. Những người hủy bán kinh luân sẽ bị Hồn Thiên Dân Tộc sát hại. Dù cho đó là ai Bí Thư, Chủ Tịch, Tổng Thống cũng bị tai họa như thường. Con Cháu Tiên Rồng Việt Nam hãy nhớ kĩ những lời nói trên.

* * *



CHƯƠNG 13

PHẦN 2

UY DANH XUẤT HIỆN, QUÂN GIẶC TỰ LÙI


Tin con Trời xuống thế chuyển đại pháp luân được truyền đi khắp Bộ khắp Châu, Quận, Huyện. Tận hang cùng ngõ hẻm, rồi lan truyền qua các nước lân cận. Đối với quân xâm lược đây là tin sét đánh làm cho quân giặc choáng váng, đảo lộn tình thế. Những thông tin đã uy hiếp tinh thần của chúng. Nào là con Trời xuống thế, nào là Quốc Vương, Vương Phi hiển Thánh. Nào là Thái Tử chứng quả Chánh giác, Thần Công cái thế có một không hai trên đời.

Ba anh em Hồ Nhất Quỉ, Hồ Nhị Quỉ, Hồ Tam Quỉ. Liền cưỡi mây cưỡi gió đến Nam Kinh Xích Quỷ xem thật hư ra sao. Chúng nghe dân chúng khắp kinh thành truyền tụng không ngớt, chúng càng nghe càng sợ hãi. Chúng nhìn về phía hoàng Cung, thấy ba đạo hào quang phóng lên không trung làm chúng càng thêm khiếp vía. Tai nghe mắt thấy chúng càng thêm khiếp sợ. Mộng tưởng xâm lược coi như tắt ngúm bụi tàn.

Thơ rằng:

Tiếng sấm uy Linh, rền sông núi

Ngoại xâm khiếp vía, thất hồn Kinh

Tam Quỉ lui binh, bò lết trốn

Chẳng cần Đại Chiến, tổn hao binh

Một Đạo hào quang, trùm nhân thế

Thiên La Địa Võng diệt yêu Tinh

Vũ trụ hư không, muôn ức cõi

Cội Nguồn vận chuyển chấn rung rinh.

Còn những Vương Quốc hùng mạnh. Như Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai. Là những Vương Quốc hùng mạnh có dã tâm lớn. Lâu nay cứ dòm ngó nước Xích Quỉ. Vì nước Xích Quỉ nổi tiếng giàu có đất đai phì nhiêu, ruộng nhiều lúa tốt. Ngọc Ngà, Châu Báu, Vàng Bạc đầy kho, miếng thịt nước non béo bở như thế, không mơ không mộng sao được. Nghe con Trời xuống thế không khỏi hoang mang nhưng vẫn chưa tin là vì chưa tận mắt thấy.

Có một số nước như nước Đột, nước Cù, nước Ngu. Đem quân xâm lấn biên cương ở các thời Tiên Đế Kinh Dương Vương. Nhưng lần nào cũng thất bại. Các thời Kinh Dương Vương, vị vương nào cũng anh minh Thần dũng. Quân sự, chính trị, kinh tế lúc nào cũng ở đỉnh cao, Nhân tài không thiếu. Do đó nước Đột, nước Cù, nước Ngu đem quân xâm lấn biên cương liền bị tiêu diệt mất gốc. Nước Xích Quỷ càng thêm mở rộng. Ngoại ban khiếp vía, nhờ thế nước Xích Quỷ Độc Lập mãi kéo dài hơn hai nghìn năm. Kinh Dương Vương thời cuối là vị Vương hiền, chuyên tâm tu niệm Thần Thông Pháp Thuật Cao Cường. Các thế lực ngoại xâm khó mà nuốt cho trôi. Nay lại nghe cũng như chứng kiến con Trời xuống thế ba anh em Hồ Quỉ không đánh mà lui khiếp sợ đến nổi kéo quân bỏ chạy sợ bị tiêu diệt tận gốc không còn chỗ dung thân.

Ba anh em con nhà Húc Đế. Chỉ có Đế Lai là mạnh hơn cả còn Đế Nghi, Đế Minh thì yếu hơn. Đế Lai thu hút nhân tài khắp chốn. Lại thêm Đế Nương sanh ra một kỳ Nữ. Tài ba xuất chúng có một không hai trên đời. Nhân hạnh Đức hạnh hơn người nổi tiếng là thông minh bật nhất Thiên Hạ. Còn sắc đẹp thì đến nỗi hoa nhường Nguyệt thẹn. Ai nhìn thấy cũng ngây ngất thần hồn. Lại thêm pháp thuật thần thông quảng Đại. Đi mây về gió vô cùng lợi hại. Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy tên là Phụng Cơ. Nghe đâu Phụng Cơ chính là Vương Mẫu đầu thai xuống trần cứu thế. Phụng Cơ Đức – Hạnh – Tài – Sắc không ai bì kịp, nên không biết bao nhiêu bậc anh tài mơ ước làm chủ đóa hoa Thiên Hương nầy anh hùng, hào kiệt, kỳ nhân Dị Sĩ tài ba xuất chúng khắp mọi nơi lần lượt đến ra mắt Đế Lai hầu mong làm được con rể. Vì vậy mà thế lực Đế Lai mỗi ngày mỗi mạnh. Kinh Dương Vương khi chưa hiển Thánh lấy làm lo sợ việc này.

Nhưng hôm nay thì khác. Kinh Dương Vương cùng Vương phi Hiển Thánh. Có thể biết trước mọi việc xảy ra. Lại thêm bá Quan văn võ ngộ Đạo trí huệ tài năng hơn người. Chỉ cần bấy nhiêu thôi cũng đủ làm khiếp đảm quân thù xâm lược. Huống chi còn có Thái Tử trí huệ Thần Thông quảng đại vô biên. Chí Tôn xuất hiện quân giặc tự lùi. Hàng phục Thiên Hạ nhân loại, không cần động đến gươm đao giáo mác. Đẩy lùi Ma, Quỉ, không cần động đến quân binh. Hàng phục các giáo phái Thần Giáo không cần động đến tay chân. Cội Nguồn Thiên Đạo Vũ Trụ xuất hiện. Là Bất chiến tự nhiên thành. Vì thế Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng là Chủ Nghĩa đỉnh cao trí tuệ đêm lại sự yên bình cho toàn nhân loại con người, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.

* * *

Hết phần 2 chương 13 mời xem tiếp phần 3 chương 13 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Long Hoa Mật Tạng kinh là Quốc Bảo Chân Kinh. Kinh tạng tối cao Truyền Thống Anh linh dân tộc. Long Hoa Mật Tạng xuất hiện. Là cả năm nghìn năm Hồn Thiên Dân Tộc ứng theo phò trì. Khí thiêng sông núi bảo bọc. Nên nói Long Hoa Mật Tạng là Bộ Kinh tối đại linh thiên. Chỉ cần một lời ca ngợi cũng đã tai qua nạn khỏi. Huống chi là đọc tụng, biên, chép, truyền bá cho người. Phước đức người nầy không biết đâu mà lường. Trên đầu có Cha Mẹ Trời phù hộ, đi đứng nằm ngồi đều có Hồn Thiên Dân Tộc bảo bọc che chở.

Long Hoa Mật Tạng đại tối linh

Thành tâm đọc tụng, chép ấn in

Lập công truyền bá trong nhân thế

Hiển Thánh tại trần, nhớ đừng quên.

* * *



CHƯƠNG 13

PHẦN 3

LONG VÂN ĐẠI HỘI


Nói về Kinh Dương Vương, cùng Vương Phi Nương Nương Thần Long Nữ Hiển Thánh vào ngôi Tam Hoàng vũ trụ.

1: Thiên Hoàng

2: Địa Hoàng

3: Nhơn Hoàng


Kinh Dương Vương từ ngôi phàm lên ngôi Thánh, từ ngôi vương lên ngôi Hoàng. Thánh Hoàng cũng là ngôi vị Thiên Tôn cai quản Thánh Chúng ở Thiên giới. Vương Phi Thần Long Nữ. Từ ngôi Thần lên ngôi Thánh. Từ Mẫu Hậu lên ngôi Mẫu Hoàng. Mẫu Hoàng cũng là ngôi vị Thiên Tôn cai quản Thánh Chúng ở Thiên Giới.

Theo Thiên Luật vũ trụ. Ngũ Đế an vị như sau.

Thanh Đế phương Đông.

Bạch Đế phương Tây.

Hắc Đế phương Bắc.

Xích Đế phương Nam.

Còn Hoàng Đế Thiên Hoàng thì ở trung ương Hạ Thiên vũ trụ.

Kinh Dương Vương sau khi Hiển Thánh hồi phục tiền kiếp ngôi vị Ngọc Hoàng Thiên Hoàng của mình. Tức là ngôi vị Ngọc Hoàng Thượng Đế Thiên Tôn Đầu Thai. Theo huyền cơ hành sự. Còn Thần Long Nữ cũng chính là Đức Mẫu Hoàng Thiên Mẫu đầu thai. Hiển Thánh hồi phục ngôi vị cũ. Nên Kinh Dương Vương và Vương Phi Nương Nương, có đủ Quyền năng gọi Thần Triệu Thánh đến dạy bảo sai bảo. Nơi vũ trụ có vô lượng ngôi vị Thiên Tôn. Thế Tôn. Tức là các vua Trời. Các Thánh Tổ, Phật Tổ. Thánh Chúa, Thần Tổ. Đông vô lượng vô biên.

Còn ngôi vị Chí Tôn thì hiếm thấy xuất hiện. Có thể nói ngôi vị Chí Tôn là ngôi vị Độc Nhất vô nhị. Thừa hành theo Di Chí Tổ Tiên. Cha Trời Địa Mẫu. Ban hành Hiến Pháp Cội Nguồn. Luật Pháp Cội Nguồn. Công Pháp Bình Đẳng Đạo Luật vũ trụ. Mở hội Long Vân. Mở hội Long Hoa. Mở hội Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng vũ trụ.

Nói về các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện. Các Bộ Tộc lân cận, các nước lân bang. Không phân biệt giáo phái. Nay Quốc Vương Kinh Dương Vương thông báo rộng rãi mời tham dự Đại Hội Long Vân. Tin tốt đẹp nầy đã làm nô nức đến các anh hùng hào kiệt, giáo sĩ Đạo sĩ, các bộ Lạc xa gần hùng mạnh. Từ đồng bằng cho đến tận núi cao. Khắp sông hồ cho đến tận biển Đảo. Đại diện cả trăm Dân Tộc. Toàn là những vị có võ nghệ cao cường. Pháp thuật Thần Thông quảng đại. Từng đoàn người kẻ cưỡi Voi. Người cưỡi Cọp, cưỡi Sư Tử, cưỡi Đại Bàng, cưỡi Tê Giác, đi đến đâu thời làm kinh động dân tới đó, từ Đại Ngàn thượng Nguồn đổ về mỗi lúc một đông. Dân chúng hai bên đường sợ hãi phải đóng cửa. Các Tu sĩ, Đạo sĩ của các giáo phái Thần giáo, cưỡi gió đạp mây đến dự Đại Hội Long Vân. Các vị đứng đầu các Bộ Lạc cỡi Ngựa Thần phi qua biển Đảo, qua sông qua suối qua núi qua đồi đến Xích Quỷ Nam Kinh dự hội.

Nói về các Giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ của các giáo phái Thần giáo. Những vị Thần giáo có pháp thuật. Đi mây về gió. Đi trên mặt nước như đi trên đất liền. Có những vị Đạo sĩ luyện Đạo tới mức tên bắn không thủng. Đao Kiếm chém không đứt. Có người phun ra lửa thổi ra băng, quả thật tài cao ít có trong đời. Các Ngài là những Giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ, Thần giáo danh cao vọng trọng. Mỗi vị từng là giáo phái Thần giáo mỗi phương. Được các Đế Vương, Quốc Vương trọng dụng. Tình hình chuyển hóa thế sự thay đổi có thể nói nền phong Kiến Thần giáo đã đến hồi cực thịnh, ở khắp các Châu Lục. Phương Đông gọi các Ngài là Thần giáo. Còn phương Tây gọi các Ngài là Phù Thủy. Thần giáo hay Phù Thủy, phân làm hai trường phái.

1: Trường phái Duy Tâm giáo trị Thần Giáo

2: Trường phái Duy Vật giáo trị Phù Thủy.


Hai trường phái nầy chê trích lẫn nhau ganh ghét lẫn nhau. Như Nước với Lửa giao tranh với nhau trải qua hàng triệu năm, gây chiến tranh chết chóc xảy ra khắp chốn khắp nơi.

Đến thời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. Đồng thời PHỤC HY (hay còn gọi là Hiên Viên). Thì khoa học Luận chứng ra đời. Ở đời cái gì cũng vậy. Hể có hình thời có bóng, có Chân thời có Giả. Khoa học luận chứng ra đời. Cũng có cái bóng theo đuôi của nó. Cái Bóng theo đuôi Khoa Học. Chính là Duy vật biện chứng. Làm cho Nhân Loại nhầm lẫn giữa giả khoa học và chân khoa học tưởng nhầm bóng là hình. Coi các nhà Duy Vật Biện Chứng là các nhà Khoa Học. Và sự nhầm lẫn nầy dẫn đến tai hại hàng nghìn năm sau. Đến dự Đại Hội Long Vân có cả một số nhà khoa học luận chứng. Lẫn cái bóng của khoa học luận chứng là các nhà Duy vật biện chứng. Các nhà Duy Vật Biện Chứng chỉ có nói hay gạt giỏi khó mà phát minh ra khoa học mới, chỉ dựa vào phát minh của người khác ca ngợi sự hiểu biết của mình. Nên rất khó đưa đời sống xã hội lên cao.

Thái Tử giờ đây quá hiểu rõ trường phái Duy vật biện chứng nầy. Đến dự Đại Hội Long Vân có cả người tốt lẫn người xấu. Có người đến dự hội với lòng đầy ác ý. Chờ cơ hội là hạ nhục Thái Tử ngay.

Nơi Đền Rồng bá Quan văn võ đến chầu đông đủ. Quốc Vương Kinh Dương Vương nay trông thật oai vệ, ai nhìn thấy cũng phải kính nể khiếp sợ. Tuy tuổi đã cao, nhưng lời nói trầm hùng phát ra đầy uy lực. Nhìn thấy các quan an vị chỗ ngồi.

Kinh Dương Vương truyền phán rằng:

Các khanh hãy tấu trình công việc chuẩn bị cho ngày hội đã đến đâu.

Quốc Sư Thục Lục là người đầu tiên tấu trình trước, Quốc Sư tâu:

Muôn tâu Thánh Hoàng, việc tuyển chọn người Tài Đức qua các cuộc khảo thí gắt gao ở các Bộ, các Châu, các Quận, các Huyện. Những thí sinh đủ tiêu chuẩn đã về đến kinh thành, chờ ngày dự hội Long Vân.

Kinh Dương Vương khen:

Quốc Sư làm khá lắm.

Quốc Sư vừa vào vị trí chỗ ngồi. Thời có 1 vị quan bước ra tâu rằng:

Muôn tâu Thánh Hoàng, việc Thánh Hoàng giao cho Hạ Thần. Tốc hành sửa sang nới rộng khu vườn cấm thành khu đại hội Long Vân trước ngày 20 tháng 2 ngày sinh của Thái Tử. Và chuẩn bị cho khai Hội Long Vân ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu.

1: Khu hội họp

2: Khu ăn uống, khu giải lao

3: Khu ở nghỉ

4: Khu vệ sinh

5: Khu đàm thoại

6: Khu tịnh dưỡng

7: Khu an ninh

Tất cả đều hoàn tất.

Kinh Dương Vương khen:

Khanh làm khá lắm.

Vị Quan tiếp theo là võ quan vương Thống Soái thưa:

Muôn tâu Thánh Hoàng việc Thánh Hoàng giao cho hạ Thần. Điều động mười vạn tinh binh. Trấn giữ Đông – Tây – Nam – Bắc khu vườn cấm. Một vạn tinh binh thần dũng võ công cao cường trấn giữ hội trường, tất cả đều bố trí hoàn tất.

Kinh Dương Vương khen:

Khanh làm khá lắm.

Vị quan tiếp theo là Vương Công Hầu. Vương Công Hầu là vị vương quan đứng đầu các Quan văn thưa:

Muôn tâu Thánh Hoàng, việc Thánh Hoàng giao cho hạ Thần. Hạ Thần đã làm xong. Hạ Thần sắp xếp Dân Tộc nào theo Dân Tộc nấy, có 64 Dân Tộc, cộng thêm 36 dân tộc anh em nước Xích Quỷ lên đến cả 100 Bộ Tộc.

Kinh Dương hỏi:

Nhiều Dân Tộc đến thế sao?

Bẩm Thánh Hoàng:

Đúng là đông Dân Tộc như thế. Những người đến dự hội toàn là cấp cao mỗi Dân Tộc.

Kinh Dương Vương khen:

Công Hầu Vương khanh làm khá lắm.

Vương Công Hầu hành lễ:

Tạ ơn Thánh Hoàng.

Tiếp đến là vị quan Tham mưu trưởng Vương Hầu thưa:

Muôn tâu Thánh Hoàng có việc này rất hệ trọng. Có một số các giáo phái Thần giáo, không chịu vào khu vườn cấm tự do sinh hoạt ăn ở trong thành cũng như ngoài thành.

Kinh Dương Vương nghe tấu trình như thế. Liền lên tiếng hỏi bá Quan văn võ:

Các khanh có ý kiến xem xét giải quyết sự việc này bằng cách nào.

Quốc Sư thưa:

Muôn tâu Thánh Hoàng, các giáo sĩ, Đạo sĩ, Tu sĩ, phần lớn là sống tự do, các Ngài ít chịu ràng buộc trong khuôn khổ. Nhất là sự quản lý dưới sự kiểm soát của chế độ độc quyền độc tài độc trị nhà nước.

1: Vì các Ngài thường là Tôn Sư của các giáo phái, xưa nay ít tùng phục vương, quan.

2: Là các Ngài thường là Quốc Sư của các nước.

3: Là các Ngài Đại đa số đều có pháp thuật cao cường, không dễ gì quản thúc họ được.

Chúng ta không nên cản trở quyền tự do của họ, vì họ đến đây dự hội theo lời thông báo của Thánh Hoàng. Chúng ta có cách quản lý họ, theo kiểu tự do của họ. Cho quan tướng giả dân theo dõi kiểm soát họ mà thôi. Đây là phương kế hay nhất, vừa bám sát theo dõi hành động của họ, chủ động trong mọi tình huống xảy ra.

Kinh Dương Vương khen:

Kế sách này hay lắm, khanh y theo đó mà làm.

Thấy sự gián đoạn tấu trình. Kinh Dương Vương hỏi:

Còn vị quan nào tấu trình nữa không?

Tức thời có vị quan Tổng giám sát tấu trình rằng:

Muôn tâu Thánh Hoàng. Phái Duy vật biện chứng, lén lén lút lút. Không chịu vào khu vườn cấm. việc này xử lý làm sao?

Kinh Dương Vương nói:

Phái Duy vật biện chứng vốn là cái bóng nhà khoa học, biện minh rất giỏi. Coi Trời bằng nắp vung, coi Thiên Hạ cũng chỉ là loại khỉ, vượn mà thôi. Với cái lý vô Thần chết là hết. Mạnh là Vua thua là giặc. Đó chính là chân lý công bằng trào lưu tiến hóa của xã hội. Xã hội Độc quyền Độc Tài Độc trị chính là xã hội văn minh tồn tại. Vì vậy ở phương Tây, trường phái Duy vật biện chứng, đánh bại Phù Thủy giáo. Làm cho các Phù Thủy Thần giáo càng ngày càng bị đào thải ngôi vị Quốc Sư. Các học giả giáo sĩ Duy vật biện chứng lên thay thế, tạo ra những thế lực Độc quyền Độc Tài Độc trị. Bành trướng chiếm hữu nô lệ. Chiếm hữu thuộc Địa. Chiếm hữu Tài nguyên sông núi cũng như sự giàu có của dân. Cạnh tranh với phong kiến Độc Tài Độc Trị Thần giáo. Nhưng luôn bị Độc Tài Độc Trị phong kiến Thần giáo chính phái đánh bại. Giáo phái Duy Vật Biện Chứng hiện đang có mặt khắp mọi nơi. Sự thành công của trường phái Duy Vật. Là nắm bắt thời cơ biến động tâm lý xã hội, rồi phát động phong trào đấu tranh lật đổ Chính quyền Độc chiếm thiên hạ. Sự thành công của trường phái Duy Vật Biện Chứng là phép ẩn. Ẩn sau thành tựu khoa học. Ẩn sau Chính nghĩa. Ẩn sau trào lưu bất mãn phẫn nộ dân chúng. Luôn kích động sự mơ ước của Dân kích động dân dấy lên phong trào khởi nghĩa lật đổ chính quyền, giành lấy thiên hạ về mình. Đã gọi Duy Vật Biện Chứng là cái bóng của Khoa Học. Đã gọi là cái Bóng Khoa Học thời chân tướng của trường phái Duy Vật Biện Chứng là cái bóng trống rỗng không thực tế. Nhưng những người thiếu hiểu biết dễ lầm tưởng bóng là hình. Tưởng rằng các nhà Biện Chứng Duy Vật là các nhà Khoa Học. Nên chạy theo cái bóng để rồi lại bị cái bóng trói chặt. Đến khi vỡ lẽ thì chuyện đã rồi.

Bá quan văn võ ồ lên phái Duy Vật Biện Chứng lợi hại như thế sao?

Kinh Dương Vương nói:

Ta đã từ lâu hiểu rõ giáo phái nầy. Là giáo phái vô cùng lợi hại. Giáo Phái của Chủ nghĩa chiến tranh và sự tàn bạo. Cái bóng của trào lưu của Khoa Học. Nhân loại xã hội mơ tưởng gì thời phái Duy vật biện chứng hiện ra cái đó. Nhân loại xã hội, mơ ước giải thoát nô lệ, giải thoát tự do, giải thoát sự đói nghèo, thì phái Duy vật biện chứng hiện ra cái sự mơ ước đó nên dân chúng để tin theo và làm theo. Dưới sự thống trị Độc Tài Độc Trị phong Kiến Thần giáo đã kéo dài hàng triệu năm. Vì thế Nhân Loại cứu mãi nghèo khổ, trình độ dân trí thấp. Vừa thấy cái bóng Tự Do. Khoa Học, mà trường phái Duy Vật Biện Chứng tạo ra bằng ngôn từ và sự ảo tưởng được lồng ghép Chính Nghĩa xuất hiện, như một chủ nghĩa cứu tinh. Liền được dân chúng đồng tình yêu mến ưa thích ùa theo như nước lở. Nhưng vì chạy theo cái bóng của Khoa Học nên rốt cuộc không đem lại được gì, sa chân lún sâu vào hố thẳm. Đó là hố tội ác, mà cái bóng Tự Do, bóng chính Chính Nghĩa, bóng Khoa Học, đã dẫn đường cho họ.

Nay ta đã hiểu thấu về trường phái Duy Vật Biện Chứng những lời Thái Tử nói với ta cách đây hơn sáu năm. Hễ cái gì có hình thì có bóng của nó. Hình lớn thì bóng lớn. Thiên hạ nhân loại thi nhau lầm mãi. Và chỉ có ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác Huệ Quang Mặt Trời vũ trụ, mới đủ sức đưa trình độ dân trí lên cao, nơi tâm hồn của họ tự có huệ quang, nhìn thấy rõ cái bóng tự do, khoa học Chính Nghĩa kia. Cái bóng Tự Do, cái bóng Khoa Học, cái bóng Chính Nghĩa, tự biến mất và nhân loại sẽ nhìn thấy thật sự Tự Do, thật sự Khoa Học, thật sự Chính Nghĩa sẵn có trong mỗi Linh Hồn con người và khi ấy con người mới hiểu. Và tự bảo vệ quyền Tự Do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền làm chủ khoa học, quyền làm chủ Chính Nghĩa. Quyền làm chủ Hiến Pháp Đại Đồng, Luật Pháp Đại Đồng. Luật Pháp Công Bằng Bình Đẳng. Các quyền cơ bản con người được tôn trọng ai cũng như ai, trong cái Chung có cả cái Riêng của mỗi con người. Có nghĩa bảo vệ Quyền Lợi Chung, trong đó có Quyền Lợi Riêng của chính mình.

Vì ngày hội sắp đến chỉ còn ba ngày nữa là Thái Tử khai mở Đại Hội Long Vân. Mở ra trang sử mới. Đánh dấu mở đầu cho lịch sử Con Rồng Cháu Tiên ra đời. Tiến tới xã hội Văn Minh, Công Bằng, Bình Đẳng. Thay cho chế độ Độc Tài, Độc Trị. Chỉ có Hiến Pháp là Vua. Luật pháp là Thầy. Công Lý là lẽ sống công bằng văn minh của xã hội văn minh loài người.

Kinh Dương Vương nói tiếp:

Trên có Trời, dưới có Đất. Chính giữa có tam giáo Phật Thánh Tiên. Thì còn lo chi cái Ác lấn cái Thiện, phi nghĩa đời nào thắng được Chính nghĩa mà lo. Mặt Trời đã mọc ánh sáng Thái Dương rực rỡ Thì ánh sáng trăng sao tự biến mất lu mờ. Kinh Dương Vương lại nói: Ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ xuất hiện, Thì ngay cả ánh sáng Phật Thánh Tiên Thần Chúa còn phải lu mờ. Huống chi là ánh sáng mờ ảo của tà giáo. Phái Duy Vật Biện Chứng chỉ là cái bóng đen của Khoa Học. Khi ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng xuất hiện thì tự nó tan biến mất.

Quốc Sư Thục Lục tâu:

Muôn tâu Thánh Hoàng chúng Thần đã chứng kiến ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn do Thái Tử hiển lộ Thần Thông. Quả thật ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng là thứ ánh sáng mà không thứ ánh sáng nào sánh nổi. Ánh sáng của sự quyền năng vô hạn, quyền lực vô biên. Và chỉ còn vài ba ngày nữa chúng ta lại chứng kiến ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn ấy.

Kinh Dương Vương thấy không còn chuyện gì để bàn nữa bãi triều ai lo việc nấy. Khu vườn cấm hôm nay trùng trùng điệp điệp cả 100 dân tộc anh em. Người Kinh lẫn người Thượng. Người Hoa lẫn người Khơ, Chăm. Là những dân tộc anh em đông dân nhất, hơn các dân tộc anh em khác. Những dân tộc anh em có mặt. Họ là những tinh hoa thời Đại của các tầng lớp xã hội. Thành phần Địa vị cao, từng đoàn người bước vào hội trường thẳng đến vị trí đã được sắp xếp. Nhìn hội trường khu vườn cấm hôm nay hàng vạn vạn người đông đúc, trật tự trên bãi cỏ xanh mượt bằng phẳng. Lấy bầu Trời làm mái che. Lấy cỏ xanh làm bàn ghế. Địa cuộc do Thiên Tạo nhưng có bàn tay con người tài hoa cải biến, làm cho quan cảnh nơi đây vừa đẹp vừa thoáng mát dễ chịu vừa ý lòng người.

Đầu giờ Thìn đã đến nhìn cảnh người trùng trùng điệp điệp chật khu đầy bãi. Nhưng cảnh quang vẫn trật tự, yên lặng đến lạ thường, hàng vạn vạn cặp mắt đổ dồn về phía bảo đài, như chờ đợi một sự kiện thiêng liêng sắp xảy ra hàng triệu năm mới có 1 lần. Trên Bảo Đài rộng lớn được kiến tạo sắp xếp thành ba phần từ thấp đến cao. Phần trên cao Bảo Đài được sắp xếp bề thế trang nghiêm. Ngai Rồng, Ngai Phụng như nói lên Thánh Hoàng. Hoàng Mẫu sẽ ngự giá trên ấy. Tầng kế thấp hơn có tòa Thái Cực phận định lưỡng nghi, được đặt ngay chính giữa. Bao hàm Thiên Địa Âm Dương, gồm đủ bốn phương ngũ hành, Bát Quái. Tòa Thái Cực được cấu tạo bằng bảy báu vàng, bạc, kim cương, trân châu, pha lê, xà cừ, hổ phách. Có mùi gỗ quí chiên đàn hương lan tỏa hàng trăm bước vẫn còn nghe thơm ngát. Hai hàng ghế được sắp xếp hai bên tổng cộng 108 chiếc. Không hiểu dành riêng cho những ai. Còn tòa Thái Cực không nói nhưng ai cũng hiểu. Đó chính là dành riêng cho Thái Tử Đăng Quang lên ngôi Chí Tôn thuyết giáo.

Còn tầng dưới nhất sát mặt đất là tầng trống không. Từ nơi bảo tháp trên bảo Đài hai hàng bá Quan văn võ đang hộ giá Thánh Hoàng ngồi vào Ngai Rồng. Hộ giá Mẫu Hoàng ngồi vào Ngai Phụng, kèn trống nổi lên với lời ca điệu nhạc hùng tráng. Ca ngợi Lòng quả cảm của sự đoàn kết của con người. Ca ngợi Đức Cha Trời.

Kinh Dương Vương Thánh Hoàng. Vương Phi Mẫu Hoàng an vị xong, trên Ngai Rồng Ngai Phụng. Tức thời 2 đạo hào quang từ Thánh Hoàng, Mẫu Hoàng phóng lên vô cùng đẹp mắt. Bỗng trên không trung Tiên Nữ xuất hiện. Bay lượng vô cùng đẹp mắt. Đàn ca sáo thổi. Ca ngợi công Đức Chí Tôn. Đàn sáo Du dương, lời ca trầm bổng. Ca ngợi Đấng cứu thế chuyển Đại pháp luân. Mở cửa Thiên đàng, lấp đường Địa Ngục, giải thoát nô lệ, giải thoát áp bức, giải thoát lạc hậu, đói nghèo. Trả lại những quyền thiêng liêng mà Đức Cha Trời đã ban tặng cho mỗi con người không ai có quyền cướp đi. Cũng như không ai có quyền xâm phạm. Quyền sống của mỗi con người Quyền Thiêng Nhất. Trong những Quyền thiêng liêng ấy có Quyền tự do, quyền Bình Đẳng. Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền tự do ngôn luận và nhiều thứ quyền khác 36 quyền chính 72 quyền chính phụ, 8 muôn 4 nghìn điều luật những quyền mà Cha Trời có đều đã ban cho mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm. Tiên Nữ bay lượn trên không rải hương hoa ca ngợi không dứt.

Trên Bảo Đài bỗng một Đạo hào quang rực rỡ Thái Tử từ từ xuất hiện ai nấy đều bị cuốn hút bởi hào quang cũng như vẽ đẹp uy phong siêu phàm của Đấng cứu thế. Các Tiên Nữ biến mất. Khi Thái Tử đã an tọa trên tòa Thái Cực. Thái Tử dùng thần lực phát ra tiếng nói, tuy âm thanh vừa đủ nghe nhưng lại vang xa hàng chục hàng trăm dặm đường ai nấy cũng đều nghe rõ. Điều này làm cho phái Duy vật biện chứng một phen thất sắc kinh hồn. Trên đời nầy có chuyện lạ như thế nầy sao? Phái Duy Vật Biện Chứng càng nghĩ càng sợ. Thái Tử là người hiểu rõ tình thế nhân loại hiện tại xu thế ác đến chín mươi phần trăm. Muốn cho nhân loại tin vào Chính Nghĩa. Không có con đường nào khác hơn là dùng cái Tài pháp thuật thần thông để hàng phục các Ác. Thị hiện pháp thuật đại Thần Thông hàng phục Tánh kiêu căng tự cao, tự phụ, tự đại, tự tôn, đa nghi và dối trá. Những tánh xấu nầy, vừa hại người, hại mình, làm hại xã hội.

* * *

Hết phần 3 chương 13 mời xem tiếp phần 4 chương 13 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Ở vào thời cách đây năm nghìn năm. Trước Phật Thích Ca hai nghìn năm trăm năm. Là thời kỳ hưng thịnh của pháp thuật thần thông. Trên 64 giáo phái điều có pháp thuật thần thông, không những thế các vị tu thiền luyện khí trên núi phần đông đều có pháp thuật thần thông cao. Nghe con Trời xuống thế là chuyện chưa từng có trên đời. Các Giáo Phái nghĩ không lẽ có Trời thiệt hay sao? Nên mới có con Trời xuống thế. Để xem thiệt hư phần lớn các vị Thần Giáo thuộc hàng tổ sư có tài trí cao pháp thuật thần thông vào bậc thượng đẳng, đằng vân giá vũ bay đến nước Xích Quỷ xem thiệt hư thế nào.

Ngày xưa pháp thuật thần thông

Mới mong cứu thế độ dân an lành

Ngày nay dân trí cao vời

Độ dân cứu thế khác thời ngày xưa

Thần Thông Trí Huệ vô biên

Mới mong độ thế chuyển xây vận thời

Ngày xưa pháp thuật lẫy lừng

Yêu tà khiếp sợ hết còn hại dân

Ngày nay Trí Huệ thâm thâm

Yêu Ma khiếp vía hết mong hại đời

Gươm Thiên Trí Huệ nhà trời

Chuyển xoay, xoay chuyển vận thời chuyển xoay.

* * *
 
×
Quay lại
Top